Chương 2. CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN KIM THÀNH ( T ỈNH HẢI DƯƠNG) TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2007
2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo của Đảng bộ huyện Kim Thành những năm 2001-2007
2.2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo của Đảng bộ huyện Kim Thành (tỉnh Hải Dương) những năm 2001-2007
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Về giao thông: Thực hiện chương trình về phát triển giao thông nông thôn của huyện, trong giai đoạn này dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ
Đảng, chính quyền và sự tham gia đóng góp có hiệu quả của nhân dân địa phương, huyện Kim Thành đã xây dựng nhiều tuyến đường giao thông nông thôn mới. Từ năm 2001 đến năm 2007, các xã, thị trấn trong huyện đã đầu tư hàng trăm tỉ đồng, chủ yếu là do dân đóng góp (Nhà nước hỗ trợ 20%) đã làm gần 400km đường bê tông, 300km đường đá cấp phối, cắm 2.500 cột mốc chỉ giới nông thôn. Tính đến năm 2004, toàn huyện đã có 13/21 xã, thị trấn có 100% đường bê tông. Các xã Cổ Dũng, Kim Lương, Cộng Hoà, Đồng Gia, Phúc Thành, Kim Xuyên, Liên Hoà, Tuấn Hưng, Kim Anh, Lai Vu, Bình Dân, thị trấn Phú Thái có phong trào bê tông hoá đường giao thông mạnh hơn cả. Có thể khẳng định, đây là nét nổi bật của huyện được nhân dân hết sức ủng hộ. Cùng với các phong trào làm đường giao thông nông thôn, các tuyến đường do huyện quản lý thường xuyên được duy tu bảo dưỡng như cải tạo nâng cấp 4km đường từ bến đò Giải đi cầu Bồng và xây dựng cầu Bồng nối liền tuyến đường từ bến đò đi Kim Tân - Hải Phòng. Tranh thủ sự ủng hộ của Bộ Giao thông vận tải, huyện đã hoàn thành tuyến đường bộ từ ghi Phúc Thành đến thị trấn Phú Thái dài 1,1km; hoàn thành việc rải nhựa theo chương trình WB2 tuyến đường: Kim Đính - Đại Đức - Bình Dân. Ngoài ra, Phòng Giao thông huyện còn mở các lớp tập huấn kiến thức quản lý, kỹ thuật giao thông cho đội ngũ cán bộ giao thông cơ sở và phối hợp với các ngành chức năng, chính quyền sở tại giải toả các tụ điểm, lều quán vi phạm hành lang giao thông trên ba tuyến: quốc lộ 5, tỉnh lộ 188, 186 cũng như các trục đường trong huyện và các xã.
Như vậy, từ năm 2001 đến năm 2007, Đảng bộ huyện Kim Thành đã chỉ đạo sát sao nên đã xây dựng được nhiều công trình giao thông quan trọng, đảm bảo nhu cầu vận chuyển của nhu cầu phát triển kinh tế hàng hoá là điều kiện quan trọng để đẩy nhanh công cuộc xoá đói, giảm nghèo, đảm bảo cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp trên địa bàn huyện.
Về thủy lợi: Kim Thành là một huyện nghèo, nhân dân sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp, từng bước đầu tư xây dựng về thuỷ lợi là việc hết sức
quan trọng để đảm bảo và nâng cao năng suất cây trồng và vật nuôi. Đây là việc phải làm thường xuyên, liên tục. Thực hiện chủ trương “kiên cố hoá kênh mương”, từ năm 2001 trở đi nhân dân huyện Kim Thành tích cực đầu tư làm mương máng. Được Nhà nước hỗ trợ 50%, đã đóng góp hàng trăm tỉ đồng, hàng chục vạn ngày công để làm hàng chục km kênh mương bằng bê tông. Hàng năm, nhân dân trong huyện còn nạo vét hàng trăm mét khối bùn đất mương máng nội đồng; xây dựng hàng trăm cống tưới tiêu các loại, tu sửa, nâng cấp các trạm bơm điện. Năm 2005, huyện hoàn thành việc cải tạo kênh tiêu cao Đồng Gia - Đại Đức - Tam Kỳ. Năm 2007, về cơ bản huyện hoàn thành công tác duy tư bảo dưỡng thiết bị, máy móc phục vụ cho tưới tiêu và chống úng, trong đó nạo vét kênh mương, việc hoàn thành xuất sắc giải toả rong bèo, khơi thông dòng nước.
Nhằm hạn chế những hậu quả đáng tiếc do thiên tai gây ra, Đảng bộ và chính quyền các cấp huyện Kim Thành luôn quan tâm đến công tác phòng chống lũ lụt, chỉ đạo công tác đắp đê, trồng cây chắn sóng, xây mới các điểm đê; xử lý kịp thời các ổ mối, lỗ rò, những đoạn đê bị thẩm thấu, khoan phụt vữa… Để làm tốt công tác này, huyện đã thành lập Ban chỉ huy chống lụt bão từ huyện xuống xã. Chỉ đạo các xã thành lập lực lượng xung kích, chuẩn bị vật liệu, hậu cần và thực hiện tốt “bốn tại chỗ” và tổ chức canh gác tuần tra nghiêm ngặt 24/24 h vào mùa mưa bão.
Bên cạnh, việc làm tốt công tác kiểm tra, xử lý các vi phạm Luật Đê điều, Pháp lệnh Phòng chống lụt bão, huyện còn phân công cán bộ trực tiếp xuống phụ trách từng xã, từng khu vực để chỉ đạo các xã làm tốt công tác phòng chống lụt bão. Chính vì thế, trong giai đoạn này, mặc dù phải hứng chịu hàng chục cơn bão lớn nhưng tất cả các tuyến đê trên địa bàn huyện Kim Thành vẫn an toàn.
Về trường học: Đi đôi với đầu tư phát triển kinh tế, Đảng bộ huyện Kim Thành thường xuyên chăm lo đến sự nghiệp giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân về học tập. Giáo dục là con đường ngắn nhất, đồng
thời là yếu tố xoá đói, giảm nghèo vững chắc nhất. Thực hiện Nghị quyết lần thứ hai Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII về xã hội hoá giáo dục và Chương trình giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ năm 2001 đến năm 2007 được hỗ trợ một phần kinh phí của Nhà nước, Đảng bộ và nhân dân huyện Kim Thành đã đầu tư hàng trăm tỉ đồng để xây dựng các phòng học, đóng thêm bàn ghế, mua sắm thêm thiết bị đồ dùng dạy học để thực hiện “trường ra trường, lớp ra lớp”. Đến cuối năm 2007, huyện đã xây dựng được gần 85% số phòng học cao tầng kiên cố bậc tiểu học, trên 90% số phòng học bậc trung học cơ sở, gần 50% phòng học mầm non và 100% phòng học cho các trường trung học phổ thông. Để đáp ứng nhu cầu học tập của con em trong huyện, năm 2001 huyện Kim Thành thành lập thêm Trường trung học phổ thông Bán công Kim Thành nay đổi thành Trường Trung học Phổ thông Kim Thành II. Ngoài ra, huyện còn dành đất cho các khu vực trường học. Hiện nay có 45/68 đơn vị trong toàn huyện được cấp quyền sử dụng đất (Trường Mầm non và Trường trung học cơ sở Cộng Hoà chưa được cấp quyền sử dụng đất); 8/68 đơn vị đủ diện tích 25m2/học sinh.
Quá trình đầu tư xây dựng cơ sở như trên đã thu hút và tạo điều kiện cho con em những xã nghèo, những gia đình khó khăn có điều kiện được đến lớp tiếp cận tri thức học lên tránh bỏ học giữa chừng, dễ mắc vào những tệ nạn xã hội, hoặc xây dựng gia đình sớm thiếu hiểu biết làm cho đời sống vốn đã nghèo lại càng nghèo hơn.
Về y tế: Công tác y tế luôn được Đảng bộ huyện Kim Thành cùng các cấp các ngành quan tâm đầu tư cả về cơ sở vật chất kỹ thuật, lẫn đào tạo và khám chữa bệnh. Từ năm 2001 đến năm 2007, không chỉ có bệnh viện huyện mà tất cả các trạm y tế xã, thị trấn đều được đầu tư xây dựng khang trang, có đủ phòng khám, điều trị, phòng sản, quầy bán thuốc và được đầu tư trang thiết bị ngày càng hiện đại. Bệnh viện huyện Kim Thành đã hoàn thành việc nâng cấp khu nhà 2 tầng số 1 (khu khám bệnh), hoàn thành hệ thống xử lý nước thải, xây dựng mới các công trình vệ sinh tại các khoa, phòng, mua máy nội soi tiêu hoá thế hệ mới, máy xét nhiệm huyết học, sinh hoá máu…
Bên cạnh đó, huyện còn xây dựng thêm Trung tâm Y tế dự phòng là nơi để dự báo, trợ giúp cho Phòng Y tế huyện kịp thời chữa trị và dập tắt dịch bệnh.
Về thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông: Trong giai đoạn (2001 - 2007), dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển nhanh, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân và điều hành của chính quyền. Doanh thu của ngành tăng 20%/năm, số thuê bao tăng trung bình trên 1000 máy/năm (2005: tăng 2400 máy), đạt 7,6 máy/100 dân, vượt mục tiêu đề ra.
Về nước sinh hoạt: Mặc dù tiềm lực kinh tế còn hết sức khó khăn, nhưng huyện Kim Thành luôn cố gắng tạo điều kiện quan tâm, chăm sóc sức khoẻ của người dân. Huyện đã mở rộng nâng cấp Nhà máy nước Phú Thái lên 8600m3/ng.đ (trước đó công suất 2000m3/ng.đ). Huyện cũng đã định hướng quy hoạch cấp nước đến năm 2020, nâng mức công suất lên 12 400 m3/ng.đ để phục vụ cho nhân dân.
Hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề
Thời gian 2001-2007, Đảng bộ huyện Kim Thành đã chỉ đạo triển khai nhiều chương trình về hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề, tạo công ăn việc làm cho người lao động trong huyện. Huyện vạch ra định hướng phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và nguồn nhân lực dồi dào của huyện.
Đảng bộ huyện Kim Thành luôn quán triệt tư tưởng hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề cho người dân nhằm mục đích xoá đói, giảm nghèo;
đồng thời còn xác định đây là một vấn đề khó khăn và phức tạp đòi hỏi có sự chung sức của các ban, ngành.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết của Đảng huyện bộ lần thứ XXI và XXII, huyện Kim Thành cũng gặp phải những khó khăn, đó là cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thiếu; thời tiết diễn biến thất thường không thuận cho quá trình sản xuất nông nghiệp; dịch cúm gia cầm xuất hiện trên diện rộng, gây thiệt hại lớn cho chăn nuôi, nhưng Ban Chấp hành Đảng bộ và nhân dân trong
huyện đoàn kết khắc phục khó khăn, tranh thủ thời cơ và những điều kiện thuận lợi cho quá trình đẩy mạnh sản xuất. Để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, Đảng bộ huyện đã có nhiều chính sách hỗ trợ sản xuất, điều đó góp phần quan trọng vào công cuộc xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn huyện.
Trong sản xuất nông nghiệp, huyện Kim Thành tiến hành chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng: tăng diện tích trồng màu ở cả ba vụ, tăng diện tích lúa lai, tăng diện tích trà xuân sớm và lúa mùa muộn; thực hiện tốt chính sách hỗ trợ về vốn, kỹ thuật cho nông dân, lựa chọn đưa những giống cây có giá trị kinh tế cao vào sản xuất; nâng cao hiệu quả hoạt động của các hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá đạt chất lượng, hiệu quả cao. Xu hướng chuyên canh ngày càng được thể hiện rõ nét, tạo nên tính chuyên nghiệp hoá cao trong sản xuất nông nghiệp. Các vùng thâm canh rau quả ở cụm xã Đồng Gia, Cẩm La, Kim Tân, Tam Kỳ, Bình Dân với các sản phẩm có tiếng như: dưa hấu, củ đậu, ớt, rau xanh các loại; vùng thâm canh cây ăn quả: vải thiều ở Kim Đính, Bình Dân, chuối ở Việt Hưng; nuôi ba ba ở Thượng Vũ, Cổ Dũng, Kim Lương… Nhờ đó, huyện Kim Thành trở thành trung tâm cung cấp lương thực, thực phẩm cho các vùng đô thị lân cận và nguyên liệu cho nhà máy chế biến, qua đó góp phần nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống nhân dân.
Huyện Kim Thành cũng đã chủ động quy hoạch các khu, cụm công nghiệp tập trung như Phú Thái, Quỳnh Phúc, Lai Vu, Kim Lương, Cộng Hoà và 11 điểm tiểu thủ công nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn. Đã có 60 dự án với tổng số vốn đầu tư ban đầu gần 5.000 tỉ đồng, sử dụng 30.000 lao động, trong đó có bốn doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Khu công nghiệp tàu thuỷ tại Lai Vu với tổng số vốn khoảng 4.500 tỉ đồng, dự kiến thu hút 20.000 lao động.
Tiểu thủ công nghiệp cũng được tạo điều kiện để phát triển, gần 4.000 cơ sở sản xuất cá thể, tập trung vào một số ngành nghề: cơ khí, khai thác cát sỏi, đóng gạch papanh, sơ chế biến nông sản, dệt, may… góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là những địa phương có diện tích canh tác bị thu hẹp do giao đất cho phát triển các khu công nghiệp.
Bên cạnh đó, huyện Kim Thành triển khai và hoàn thành chương trình quốc gia giải quyết việc làm giai đoạn 2001-2005, mở nhiều lớp tập huấn thực hiện Chương trình xoá đói, giảm nghèo cho cán bộ xã, thị trấn. Triển khai cho vay 60 dự án với số tiền trên 1 tỉ đồng giải quyết việc làm tại chỗ cho hàng trăm lao động, thực hiện dự án tuyển lao động đi làm việc ở nước ngoài. Năm 2004, huyện đã tạo việc làm và giải quyết việc làm cho 1.714 lao động, phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện và các ngành tổ chức học nghề may, mây tre đan cho 250 lao động ở xã Lai Vu, Ngũ Phúc. Năm 2005, công tác xoá đói, giảm nghèo đã giới thiệu và giải quyết việc làm cho 1.800 lao động, duyệt cho vay từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm cho 25 dự án với số tiền 1,5 tỉ đồng. Đến năm 2007, công tác giải quyết việc làm để xoá đói, giảm nghèo tiếp tục được quan tâm. Huyện đã thực hiện có hiệu quả đề án lao động xã hội và giải quyết việc làm; tạo và giải quyết cho 1.988 lao động. Trong 5 năm (2001-2005), huyện Kim Thành đã xuất khẩu lao động ra nước ngoài 1.253 người, hạ tỉ lệ thất nghiệp từ 6,5% (năm 2000) xuống còn 5,3% (năm 2005). Nâng tỉ lệ lao động ở nông thôn 76,2% (năm 2000) lên 83% (năm 2005). Có thể nói rằng, những kết quả của việc giải quyết và giới thiệu việc làm trên là thành tựu to lớn, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động cho nông dân, từ đó người lao động có vốn để tiếp tục đầu tư cho tái sản xuất sức lao động và cho con cái học hành.
Hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề cho người lao động trong huyện Kim Thành luôn có sự đóng góp to lớn từ các nguồn vốn của các Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; Ngân hàng Chính sách xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân vay đầu tư vào sản xuất, đã làm vai trò “bà
đỡ” cho sự phát triển và đi lên của kinh tế hộ gia đình.
Tín dụng cho người nghèo vay vốn
Do chính sách tín dụng cho người nghèo vay vốn giai đoạn trước đã phát huy được mặt tích cực, làm cơ sở, động lực cho giai đoạn này. Số người được vay vốn để đầu tư vào sản xuất, kinh doanh đã bước đầu vượt qua được những khó khăn nhất định. Đời sống vật chất và tinh thần của những hộ nghèo được cải thiện. Từ đó góp phần thúc đẩy vào phát triển chung của huyện. Kinh tế phát triển đã làm tăng thu ngân sách của huyện 17,26%. Hệ thống ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân được mở rộng, thực hiện đa dạng các hình thức tín dụng, tăng cường cho vay, áp dụng cho vay tín chấp, cho vay vốn trung và dài hạn, mở rộng dịch vụ chuyển tiền từ nước ngoài vào Việt Nam tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được lao động, học tập. Vốn huy động trên địa bàn tăng bình quân 33,2%/năm; tổng dư nợ cho vay bình quân tăng 26,5%/năm, đã đáp ứng kịp thời cho phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo trong nhân dân.
Từ năm 2001 đến năm 2007, bằng nhiều nguồn vốn và hình thức cung cấp tín dụng chính thức, phi chính thức đã giải quyết cho gần 98% số hộ nghèo thiếu vốn có nhu cầu được vay vốn để sản xuất kinh doanh tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho gia đình. Ngân hàng Chính sách xã hội của huyện là tổ chức tín dụng chính thức, chủ yếu hỗ trợ cho người nghèo vay vốn đã có nhiều hình thức tích cực nhằm tăng số người nghèo được vay vốn với chất lượng phục vụ hiệu quả, điều kiện vay vốn ưu đãi và linh hoạt, mức vay tuỳ theo nhu cầu của sản xuất được tăng lên cả thời gian và số lượng, bình quân mỗi hộ vay trên 4 triệu đồng và có những người được vay đến 7 triệu đồng với thời gian từ 1 đến 3 năm với mức lãi suất thấp là 0,5%/năm. Năm 2002, Ngân hàng Chính sách xã hội huyện đã cho 8.000 lượt hộ vay 5 tỉ đồng (vượt 16,3%). Năm 2004, cho 3..032 lượt hộ nghèo vay với tổng số tiền 16.559 triệu đồng, trong đó dự nợ cho 78 dự án và giải quyết được 500 lao động. Năm 2007, huyện huy động cho vay được 49,5 tỉ đồng, trong
đó dư nợ hộ nghèo 32,6 tỉ, chiếm tỉ lệ 60%/ tổng dự nợ, tăng 14.800 triệu so với năm 2003 (gấp 1,83 lần), giúp 8.637 lượt hộ nghèo được vay vốn, mức vay bình quân 6,2 triệu đồng/người, không có nợ quá hạn. Trong 5 năm giúp cho 1.754 hộ vay thoát nghèo.
Trong quá trình thực hiện quỹ tín dụng, các hộ đều trả vốn đúng, tỉ lệ nợ quá hạn chỉ chiếm khoảng 5% tổng dự nợ. Mô hình cho vay uỷ thác qua các tổ chức tín dụng và các đoàn thể, thông qua nhóm “tương trợ” Ngân hàng Chính sách xã hội đang được áp dụng đã tạo ra sự tương trợ giữa các thành viên trong nhóm, đồng thời giúp các hộ nghèo có thêm việc làm và đầu tư cho con được tiếp tục đi học, đi xuất khẩu lao động.
Có thể thống kê kết quả uỷ thác cho bốn tổ chức chính trị đến 31-12- 2007 như sau:
Bảng 2.1. Thống kê kết quả uỷ thác vốn qua bốn tổ chức chính trị Đơn vị tính: triệu đồng TT Các tổ chức hội Số
tổ
Số hộ dƣ nợ
Tổng dƣ nợ
Các chương trình uỷ thác Hộ
nghèo
Nước sạch và vệ sinh môi trường
Học sinh, sinh viên 1 Hội Phụ nữ 121 3.823 18.859 12.766 3.279 2.814 2 Hội Nông dân 123 3.405 16.605 10.713 5.113 779 3 Hội Thanh niên 73 1.315 7.929 6.641 696 592 4 Hội Cựu chiến
binh
29 714 3.957 2.480 738 739
Tổng cộng 346 9.293 47.350 32.600 9.826 4.924 Bên cạnh đó, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Ngân hàng Sài Gòn thương tín (Sacombank) và các tổ chức tín dụng trên địa bàn hoạt động có hiệu quả, có tác dụng tích cực trong việc xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm cho người lao động và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương.