Kết quả khảo sát về nội dung quản lý vốn từ tham khảo, tư vấn ý kiến chuyên gia thông qua phiếu xin ý kiến như sau:
Câu Nội dung khảo sát
Kết quả khảo sát
Đồng ý
Không đồng ý
Ý kiến khác
2.1
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về quản lý vốn doanh nghiệp đã đầy đủ?
10% 10% 80%
2.2
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về quản lý doanh nghiệp nhà nước chủ yếu được điều chỉnh bằng văn bản dưới luật. Điều này làm hạn chế hiệu quả trong quản lý vốn tại các Công ty TNHH MTV.
49% 7% 44%
2.3
Hiện nay chưa có các quy định về các hành vi bị cấm trong lĩnh vực đầu tư và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp.
Cần bổ sung nội dung này vào quy định hiện hành để nâng cao hiệu quả trong quản lý vốn tại các Công ty TNHH MTV.
68% 10% 22%
2.4 Hiện nay chưa có các quy định về quy 78% 10% 12%
trình, trình tự, thủ tục thực hiện việc đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Cần bổ sung nội dung này vào quy định hiện hành để nâng cao hiệu quả trong quản lý vốn tại các Công ty TNHH MTV.
2.5
Trong việc cơ cấu lại vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, vấn đề hình thức cơ cấu lại vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp là chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp chưa được đề cập. Cần bổ sung nội dung này vào quy định hiện hành để nâng cao hiệu quả trong quản lý vốn tại các Công ty TNHH MTV.
75% 7% 18%
2.6
Việc đầu tư vốn dàn trải, không đúng đối tượng của Nhà nước làm giảm hiệu quả trong quản lý vốn tại các Công ty TNHH MTV.
64% 4% 32%
2.7
Việc doanh nghiệp nhà nước thực hiện đầu tư vốn vào các lĩnh vực, ngành nghề không thuộc lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh chính của doanh nghiệp, đầu tư tràn lan, đầu tư vào các ngành nghề có nhiều rủi ro đã hạn chế hiệu quả trong quản lý vốn tại các Công ty TNHH MTV.
33% 23% 44%
Về khung pháp lý chung đối với nội dung quản lý vốn
Hiện nay, các quy định quan trọng liên quan đến DNNN như đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp; chuyển đổi, sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp; phân công, phân cấp thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước; giám
sát, báo cáo và công khai hoạt động của DNNN vẫn được điều chỉnh bởi các văn bản dưới luật.
Để tiếp tục phát huy vai trò chủ đạo của DNNN theo định hướng của Đảng và Nhà nước, phù hợp với tính đặc thù trong thực tiễn hoạt động và tăng cường quản lý, giám sát đối với DNNN, trong năm 2014 Quốc hội đã thông qua Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp - Luật số 69/2014/QH13. Luật số 69/2014/QH13 đã phân định quyền hạn và trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước, cơ quan đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp, đại diện chủ sở hữu trực tiếp tại doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm và tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với người quản lý doanh nghiệp. Quy định cơ quan đại diện chủ sở hữu có trách nhiệm thực hiện kiểm tra, giám sát thường xuyên và thanh tra việc chấp hành pháp luật; việc quản lý, sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn; việc thực hiện chiến lược, kế hoạch; việc thực hiện chế độ tuyển dụng, tiền lương, tiền thưởng của doanh nghiệp.
Đánh giá việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ, ngành, nghề kinh doanh được giao và kết quả hoạt động, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; đánh giá đối với người quản lý doanh nghiệp trong việc quản lý, điều hành doanh nghiệp. Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty chịu trách nhiệm trước cơ quan đại diện chủ sở hữu trên cơ sở hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn; chịu trách nhiệm vật chất thuộc trách nhiệm dân sự về những hành vi sai phạm gây tổn thất vốn, tài sản của doanh nghiệp.
Phương thức quản lý vốn nhà nước qua đó cũng sẽ được đổi mới từ quản lý hành chính sang quan hệ đầu tư, kinh doanh vốn; Xác định rõ mối quan hệ giữa chủ sở hữu vốn, người quản lý điều hành doanh nghiệp; Tăng cường tính tự chủ cho doanh nghiệp có vốn nhà nước. Do đó, xác lập rõ được quyền và nghĩa vụ của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Tạo sự phân công, phân cấp giữa các cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố, Hội đồng thành viên các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; thay đổi phương thức quản lý, giám sát gắn với việc phân loại, đánh giá doanh nghiệp.
Như vậy, Luật số 69/2014/QH13 được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý cao cho hoạt động đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp trên cơ sở kế thừa những
quy định dưới Luật đã ban hành có liên quan đang thực hiện ổn định và có hiệu quả, bổ sung các quy định nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn về quản lý đối với Công ty TNHH MTV vốn Nhà nước. Tuy nhiên, để việc sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh thực sự có hiệu quả, đẩy nhanh việc sắp xếp đổi mới, cổ phần hóa DNNN, cần phải có những văn bản hướng dẫn thi hành Luật và tiếp tục hoàn hiện khung pháp lý về đầu tư vốn và sử dụng vốn tại Công ty TNHH MTV. Vì vậy, Chính phủ cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể để Luật nhanh chóng đi vào đời sống thực tiễn.
Bên cạnh đó, ngoài việc ban hành Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước, cần phải rà soát hệ thống văn bản dưới Luật nhằm có định hướng bãi bỏ hoặc thay thế các nội dung trong các văn bản sao cho phù hợp với luật mới. Ngoài ra, cũng cần khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp và không rõ phạm vi trong các quy định liên quan đến phân công, phân cấp về đầu tư vốn, quản lý vốn và tài sản tại các DNNN giữa các cơ quan quản lý nhà nước để tránh tình trạng khó xác định trách nhiệm khi xảy ra sai phạm (Ví dụ: về thẩm quyền quyết định đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp, điểm d khoản 2 điều 7 Nghị định 71/2013/NĐ-CP ngày 11/07/2013 quy định Ủy Ban nhân dân tỉnh phối hợp với Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch - Đầu tư để thẩm định phương án mua lại một phần vốn hoặc toàn bộ doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác).
Như vậy, cần phải hoàn thiện khung pháp lý để DNNN hoạt động trong môi trường pháp lý công khai minh bạch và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đã đầu tư. Tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN, đảm bảo cải cách phải tuân thủ các quy định của pháp luật; chia tách chức năng xã hội với chức năng kinh doanh. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra của chủ sở hữu nhà nước. Chuyển một phần lợi nhuận của DNNN thành nguồn thu của NSNN để cho đầu tư phát triển kinh tế, DNNN và thực hiện chiến lược phát triển của quốc gia.
Một số giải pháp về việc đầu tư, sử dụng vốn
Việc đầu tư vốn thể hiện dưới hai hình thức cơ bản là đầu tư vốn thành lập doanh nghiệp mới và đầu tư vốn nhà nước để bổ sung vốn điều lệ. Quy định hiện hành
đã xác định được thẩm quyền quyết định đầu tư vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp và xác định những ngành, lĩnh vực, địa bàn được đầu tư vốn nhà nước. Việc bổ sung vốn điều lệ cho các Công ty TNHH MTV đang hoạt động có nhu cầu tăng vốn điều lệ cũng có các quy định về thẩm quyền quyết định. Tuy nhiên, tác giả đánh giá rằng hiện nay vẫn thiếu các quy định, quy trình về trình tự, thủ tục thực hiện việc đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Với đặc thù của DNNN khác với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân, khi mà chủ sở hữu vốn có thể thực hiện quyền thành lập doanh nghiệp, thay đổi vốn điều lệ đối với doanh nghiệp của mình thông qua các thủ tục khá đơn giản, nhanh gọn tại cơ quan đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì việc đầu tư vốn nhà nước chưa được quy định một cách cụ thể về trình tự, thủ tục đã gây khó khăn cho hoạt động thực tế tại doanh nghiệp khi mỗi quyết định đầu tư vốn phải thông qua nhiều cơ quan ban ngành có liên quan trước khi cơ quan sở hữu trả lời cho doanh nghiệp. Những quy định này một mặt đảm bảo cho chất lượng đầu tư vốn nhà nước nhưng nhiều trường hợp chính sự chậm trễ này đã làm mất đi những cơ hội kinh doanh do thiếu vốn, chậm vốn. Chính phủ cần sớm ban hành các quy định chi tiết về trình tự, thủ tục đầu tư vốn nhà nước một cách rõ ràng để thành lập doanh nghiệp mới hoặc để bổ sung vốn điều lệ.
Quản lý sử dụng vốn được xác định bao gồm các nội dung về quản lý việc huy động vốn; đầu tư, xây dựng, mua sắm tài sản cố định của doanh nghiệp; cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản; thanh lý, nhượng bán tài sản cố định; hàng hóa tồn kho; các khoản nợ phải thu; việc đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp và việc chuyển nhượng các khoản đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp. Mục đích quan trọng nhất trong quản lý vốn đối với nội dung này là làm sao để DNNN sử dụng vốn nhà nước hiệu quả nhất, không để xảy ra việc thất thoát vốn nhà nước. Tuy nhiên, đánh giá cho thấy DNNN nắm giữ lượng vốn lớn, có giá trị tổng tài sản cao, đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước (NSNN) nhưng hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh vẫn chưa tương xứng với nguồn lực. Mặc dù đã trải qua nhiều lần sắp xếp, chuyển đổi, nhiều DNNN vẫn hoạt động ở những ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp, công tác quản lý vốn chưa thực sự phù hợp khiến vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp thời gian qua chưa được sử dụng hiệu quả.
Với định hướng Nhà nước sẽ không đầu tư thêm vốn vào sản xuất kinh doanh, đồng thời sẽ giảm dần và thu hẹp phạm vi vốn nhà nước hiện có ở những ngành, lĩnh vực không cần thiết phải có sự đầu tư vốn của nhà nước, chỉ đầu tư hoặc duy trì vốn nhà nước hiện có ở những lĩnh vực cung ứng dịch vụ, sản phẩm công ích, dịch vụ thiết yếu cho đời sống xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh. Theo Dự thảo của Nghị định về hàng hóa, dịch vụ do nhà nước độc quyền thương mại, dự kiến nhà nước, mà đại diện là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, sẽ giữ độc quyền các lĩnh vực sau: sản xuất, phân phối, xuất nhập khẩu vật liệu nổ công nghiệp, vận hành thủy điện đa mục tiêu và điện hạt nhân, sản xuất vàng miếng, xuất nhập khẩu vàng miếng, vàng nguyên liệu, nhập khẩu thuốc lá, phát hành sổ xố kiến thiết… Bên cạnh đó, các dịch vụ nhà nước độc quyền như hoạt động dịch vụ hoa tiêu hàng hải, bảo đảm hoạt động bay, và xuất bản (không bao gồm dịch vụ in và phát hành xuất bản phẩm)… Trong thời gian tới, vấn đề cơ cấu lại vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp là vấn đề cấp bách được đặt ra nhằm đảm bảo mục tiêu thu hồi vốn nhà nước, tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vốn để phát triển kinh tế xã hội, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.
Trong việc cơ cấu lại vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, Nhà nước đã ban hành các quy định liên quan đến các hình thức cơ cấu lại vốn như chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại doanh nghiệp; chuyển nhượng vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp khác, tuy nhiên, chưa đề cập đến hình thức cơ cấu lại vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp là chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, thiếu các quy định liên quan đến hình thức cơ cấu lại vốn này, thiếu các quy định về điều kiện hoặc trường hợp được áp dụng các hình thức cơ cấu lại vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Chính phủ cần sớm ban hành các quy định liên quan đến hình thức cơ cấu lại vốn “chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước”, ban hành các quy định về điều kiện hoặc trường hợp được áp dụng các hình thức cơ cấu lại vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.
Chính sách sở hữu Nhà nước cần quy định đầy đủ trách nhiệm của DNNN đối với các bên có quyền lợi liên quan và yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về mối quan hệ của họ với các bên có quyền lợi liên quan.
Phạm vi đầu tư vốn nhà nước vào các ngành, lĩnh vực then chốt, địa bàn kinh tế khó khăn gắn với an ninh, quốc phòng và đảm bảo chủ quyền quốc gia còn hạn chế, một số ngành nghề sản xuất kinh doanh được DNNN giữ thị phần lớn nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế. Các văn bản quy phạm pháp luật tuy đã quy định khái quát các điều kiện đầu tư vốn của DNNN nhưng thiếu một số vấn đề mang tính nguyên tắc, nên nhiều DNNN vẫn thực hiện đầu tư vốn của doanh nghiệp vào các ngành nghề có nhiều rủi ro. Vì vậy, cần xác định rõ hơn những ngành nghề, lĩnh vực sẽ đầu tư vốn nhà nước theo từng hình thức đầu tư cụ thể. DNNN phải tập trung vào lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế không đầu tư.
Khung pháp lý về việc cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, tái cơ cấu DNNN cũng cần thiết được hoàn thiện để việc quản lý, đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp đạt hiệu quả hơn. Đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn nhà nước không cần nắm giữ, bao gồm cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả; hoàn thiện thể chế đất đai, tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong cổ phần hóa theo nguyên tắc thị trường.
Nghiên cứu hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu, tiếp tục tái cơ cấu tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước một cách toàn diện, tập trung nguồn lực vào ngành nghề kinh doanh chính để tăng sức cạnh tranh trong nước và toàn cầu, thoái vốn đầu tư tài chính ngoài ngành, kiểm soát tài chính, các khoản nợ trong giới hạn cho phép. Tập trung nguồn thu từ thoái vốn tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước, nguồn thu sau khi trích lập các quỹ của DNNN theo quy định, nguồn thu này dùng để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia.
Lĩnh vực sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích có thường có đặc thù là nhu cầu vốn đầu tư lớn song hiệu quả vốn đầu tư không cao, thời gian thu hồi vốn lại chậm nên trong nhiều trường hợp Nhà nước phải có trách nhiệm đầu tư tạo lập các tài sản là hạ tầng cơ sở ban đầu và giao hoặc đấu thầu quản lý, sản xuất, cung ứng dịch
vụ công ích. Đối với những DNNN thực hiện chức năng kinh doanh nhưng được nhà nước giao làm nhiệm vụ công ích hoặc bình ổn giá, thì Nhà nước có cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp này hạch toán kinh doanh và thực hiện tốt nhiệm vụ công ích được giao.
Đối với TP.HCM, trong việc đầu tư vốn, căn cứ vào yêu cầu của Thành phố, UBND thành phố sẽ yêu cầu doanh nghiệp mở rộng kinh doanh. Cần phân định rõ mục tiêu lợi nhuận và mục tiêu phi lợi nhuận của Công ty TNHH MTV, phân loại thành từng nhóm Công ty TNHH MTV để có cơ chế quản lý, sử dụng vốn cho phù hợp, tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị. Bên cạnh đó, để nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, bảo đảm chất lượng sản phẩm, Thành phố có thể sử dụng quyền cung cấp vốn để đặt hàng với các doanh nghiệp.
Thành phố sẽ tiếp tục cung cấp vốn cho các doanh nghiệp khi và chỉ khi doanh nghiệp đó hoàn thành việc cung cấp sản phẩm với chất lượng và số lượng cam kết, doanh nghiệp nên được quyền chủ động về tổ chức sản xuất, phát triển nguồn nhân lực, sử dụng nguồn tài chính để thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, cụ thể:
Đối với việc đầu tư vốn vào các doanh nghiệp công ích, căn cứ vào nhiệm vụ được giao, UBND TP.HCM sẽ cấp thêm vốn cho doanh nghiệp. Ví dụ: căn cứ trên số lượng cây xanh phải trồng thêm trong năm, giá cả của loại cây xanh phải mua,...
UBND TP.HCM sẽ cấp đủ ngân sách để thực hiện. Phía doanh nghiệp phải cam kết trồng đủ số cây xanh, bảo đảm và bảo hành cây sống đủ số lượng và chất lượng.
Đối với việc đầu tư vốn vào các doanh nghiệp kinh doanh với mục đích lợi nhuận, căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh doanh và tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên vốn vay đã được xác định, UBND TP.HCM sẽ cấp thêm vốn chủ sở hữu. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải xây dựng kế hoạch vay vốn và lập hồ sơ vay vốn để bổ sung thêm vốn cho kinh doanh. Do trách nhiệm chính của các doanh nghiệp kinh doanh là trách nhiệm nộp ngân sách nên căn cứ quan trọng nhất để xác định số vốn chủ sở hữu doanh nghiệp được cấp thêm chính là nghĩa vụ nộp ngân sách.
Ví dụ: Doanh nghiệp A được giao nhiệm vụ sản xuất năm nay nộp ngân sách tăng thêm 100 tỷ đồng thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp). Mục tiêu hiệu quả kinh