Giải pháp liên quan đến hình thức quản lý vốn

Một phần của tài liệu Quản lý hiệu quả vốn tại các doanh nghiệp nhà nước - từ thực tiễn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên của thành phố Hồ Chí Minh (Trang 180 - 193)

Kết quả khảo sát về hình thức quản lý vốn từ tham khảo, tư vấn ý kiến chuyên gia thông qua phiếu xin ý kiến như sau:

Câu Nội dung khảo sát

Kết quả khảo sát Đồng ý Không

đồng ý

Ý kiến khác 3.1 Doanh nghiệp mong muốn được tăng

cường phân cấp, phân quyền quyết định để 99% 0% 1%

gia tăng quyền tự chủ, kết hợp với cơ chế giám sát, hậu kiểm chặt chẽ.

3.2

Cơ chế quản lý áp dụng đồng nhất ở mọi quy mô doanh nghiệp (cả doanh nghiệp quy mô vài tỷ đồng đến doanh nghiệp vài nghìn tỷ đồng) dẫn đến sự quá tải trong việc xem xét các đề xuất, các vấn đề xin ý kiến của doanh nghiệp, dẫn đến sự chậm trễ và ảnh hưởng đến thời cơ kinh doanh.

83% 1% 16%

3.3

Việc chậm xử lý, sắp xếp các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, có tồn tại về tài chính làm giảm hiệu quả trong quản lý vốn tại các Công ty TNHH MTV.

93% 1% 6%

3.4

Việc chậm cổ phần hóa, sắp xếp, đổi mới, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước làm giảm hiệu quả trong quản lý vốn tại các Công ty TNHH MTV.

67% 0% 33%

3.5

Nhà nước cần triển khai nghiên cứu, áp dụng một mô hình đại diện chủ sở hữu khác để khắc phục các nhược điểm nêu ở mục 3.1, 3.2, 3.3, 3.4

74% 6% 20%

Ở hầu hết các nước, việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nói riêng và quản lý DNNN nói chung rất được chú trọng. Mỗi nước có cách và mô hình quản lý riêng nhưng chủ yếu vẫn thông qua các đầu mối là cơ quan chức năng có thẩm quyền (Bộ, cơ quan ngang bộ, đơn vị thuộc bộ) và có sự tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng chủ sở hữu. Mô hình quản lý DNNN tại Việt Nam cũng thông qua cơ quan chức năng có thẩm quyền, tuy nhiên hiện tại chưa tập trung về một đầu mối và một trong những vấn đề lớn nhất của mô hình quản lý DNNN ở Việt Nam là sự không rõ ràng giữa chức năng điều tiết, quản lý và sở hữu ở các cơ quan chủ quản.

Do đó, để khắc phục hiện trạng này cần phải nghiên cứu hình thức quản lý DNNN vừa

tập trung quản lý DNNN về một đầu mối vừa có thể tách bạch được chức năng quản lý với chức năng chủ sở hữu và phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam để phát huy hiệu quả quản lý vốn nhà nước tại các DNNN. Việc đổi mới mô hình thực hiện chức năng chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN; nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các doanh nghiệp.

Từ những hạn chế, nguyên nhân trong việc thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước ở nước ta, với không ít chi phí bỏ ra để học tập kinh nghiệm quản lý DNNN của các nước trên thế giới, cũng như những kinh nghiệm quốc tế và bài học rút ra cho nước ta, hiện nay, cần phải đẩy mạnh nghiên cứu thực hiện xóa bỏ cơ chế chủ quản (hình thức quản lý vốn phân tán) và chỉ thành lập một cơ quan thực hiện chức năng chuyên trách về quản lý vốn nói riêng và thực hiện quyền sở hữu nhà nước tại các DNNN nói chung, phải tập trung và chuyên nghiệp hóa bộ máy cơ quan chủ sở hữu với các kỹ năng và công cụ thực hiện chức năng chủ sở hữu chuyên nghiệp, hiệu quả.

Việc hình thành tổ chức thống nhất chức năng đại diện chủ sở hữu đối với DNNN sẽ là giải pháp căn cơ và quan trọng nhất, thúc đẩy cải cách hành chính trong các cơ quan quản lý nhà nước; tạo sự đột phá trong đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả DNNN.

Trong mọi phương án, phải tính đến việc cơ quan chủ sở hữu chịu trách nhiệm toàn diện và cuối cùng trước Chính phủ, Quốc hội trong việc thực hiện các quyền chủ sở hữu nhà nước tại DNNN; thực hiện nguyên tắc: đối với mỗi DNNN chỉ có một và duy nhất một đầu mối trực tiếp thực hiện các quyền của chủ sở hữu và chịu trách nhiệm giải trình về kết quả thực hiện tất cả các quyền đó.

Hiện nay có nhiều phương án thay đổi mô hình tổ chức thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, phương án được cho là phù hợp nhất và được nhiều người đồng thuận nhất là Chính phủ thành lập một cơ quan chuyên trách ngang bộ thực hiện chức năng chủ sở hữu với các đối tượng và

phạm vi phù hợp, giải phóng các Bộ quản lý nhà nước khỏi chức năng quản lý của chủ sở hữu nhà nước.

Theo phương án này, Chính phủ thống nhất tổ chức thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước; hình thành đầu mối tập trung là Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp hoặc Bộ quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp để thực hiện các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước, Ủy ban/Bộ làm đầu mối thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước (bao gồm cả Tổng Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước – SCIC). Bộ chuyên ngành, UBND cấp tỉnh quản lý các DNNN cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. UBND thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp trên địa bàn.

Tại hội thảo Công bố báo cáo "Đổi mới mô hình tổ chức thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN và phần vốn Nhà nước tại DN" (do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), phối hợp với Chương trình hỗ trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO tổ chức) ngày 10/12/2014, nhiều nhà khoa học nhận định, để thực hiện hình thức quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp thông qua Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp cần thực hiện theo 2 bước: Bước 1: Là giai đoạn thành lập Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định của Luật tổ chức Chính phủ hoặc Quốc hội ra Nghị quyết về việc thành lập Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp trực thuộc Chính phủ. Theo đó, Chủ tịch Ủy ban sẽ do Thủ tướng hoặc một Phó Thủ tướng kiêm nhiệm. Phó Chủ tịch Ủy ban làm việc chuyên trách sẽ có chức danh tương đương Bộ trưởng. Đoàn Chủ tịch của Ủy ban sẽ có một số thành viên chuyên trách và một số thành viên kiêm nhiệm như lãnh đạo đại diện các Bộ liên quan tham gia. Ủy ban cũng sẽ có bộ máy chuyên môn, nghiệp vụ theo các lĩnh vực như nhân sự và tiền lương, tài chính kế toán, tái cấu trúc, đào tạo, thống kê, pháp chế.... và thành lập Hội đồng tư vấn gồm các chuyên gia độc lập, các nhà khoa học am hiểu sâu, rộng về lĩnh vực hoạt động của DNNN để hỗ trợ cho Ủy ban Quản lý giám sát DNNN quản lý toàn diện hoạt động DNNN. Đối với thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai trung kinh tế trọng của cả nước và khu vực có số lượng

khá lớn các tổng công ty, DNNN trực thuộc nên cần thành lập một tổ chức thực hiện chức năng chủ sở hữu nhà nước đối với các công ty mẹ và DNNN độc lập do UBND thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh quản lý. Bước 2: là tiến hành chuyển giao quyền chủ sở hữu Nhà nước tại các DNNN về Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhưng theo lộ trình.

Với mô hình này, tác giả đánh giá có ưu điểm:

Thứ nhất, xác định được đầu mối tập trung thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước; khắc phục được hạn chế của hình thức quản lý chưa tách bạch giữa chức năng đại diện chủ sở hữu với chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước trước đây, đảm bảo cách thức vận hành chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như các cam kết cải cách theo kinh tế thị trường, cạnh tranh bình đẳng, áp dụng khung quản trị hiện đại đối với DNNN;

Thứ hai, chuyên nghiệp hóa bộ máy tổ chức, cán bộ thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước, đảm bảo thực hiện tốt vai trò của chủ sở hữu trong việc nắm tình hình kiểm soát và quản lý hoạt động DNNN; kiểm soát chặt chẽ hơn, dễ xác định và xử lý trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp và cơ quan thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước. Ngoài ra, cán bộ thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với các DNNN là tổ chức và cán bộ chuyên môn sâu về hoạt động kinh doanh, làm nhiệm vụ kinh doanh, không phải là tổ chức và cán bộ thuộc hệ thống công quyền, do đó, không trực thuộc cơ quan hành chính công quyền.

Thứ ba, đảm bảo sân chơi bình đẳng bảo với các thành phần kinh tế khác trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thông qua đó các doanh nghiệp khu vực tư nhân có thể cạnh tranh với DNNN và cơ quan đại diện chủ sở hữu không thể sử dụng quyền lực quản lý nhà nước để ban hành các chính sách làm méo mó thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhau.

Thứ tư, Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp hoặc Bộ quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp được hình thành để thống nhất các chức năng mà trước đây do nhiều cơ quan chính phủ khác nhau thực hiện, bao gồm đại diện chủ sở hữu nhà nước cũng như điều tiết và giám sát DNNN trung ương. Do đó, Đảng và nhà nước vẫn

nắm quyền kiểm soát các DNNN và thực hiện các nhiệm vụ điều tiết, ổn định nền kinh tế vĩ mô, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia.

Thứ năm, tạo động lực thúc đẩy quá trình sắp xếp, cổ phần hóa và tái cơ cấu DNNN diễn ra mạnh mẽ và đạt hiệu quả cao hơn.

Bên cạnh phương án đề xuất thành lập cơ quan ngang bộ để thực hiện chức năng quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, cũng có nhiều ý kiến đưa ra phương án giữ nguyên cơ quan chủ sở hữu vẫn là các Bộ, UBND cấp tỉnh nhưng các cơ quan này phải có bộ phận chuyên trách đủ thẩm quyền để thực hiện chức năng chủ sở hữu.

Với mô hình này, Chính phủ thống nhất tổ chức thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước, Bộ quản lý ngành thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, SCIC thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn của các doanh nghiệp độc lập sau khi sắp xếp, cổ phần hóa của các bộ, ngành và địa phương. UBND cấp tỉnh quản lý các DNNN cung cấp sản phẩm dịch vụ công ích. UBND thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp trên địa bàn. Việc thực hiện phương án này có một số hạn chế:

Thứ nhất, chưa tập trung hóa chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước; chưa tách bạch chức năng đại diện chủ sở hữu với chức năng quản lý nhà nước; chưa đảm bảo tính chuyên trách, chuyên nghiệp, phù hợp đặc điểm và tính chất phục vụ hoạt động kinh doanh đối với DNNN của các cơ quan đại diện chủ sở hữu, của cán bộ thực hiện chức năng chủ sở hữu.

Thứ hai, ở cấp trung ương có nhiều cơ quan (nhiều bộ) thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước, việc chưa tập trung hóa chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước sẽ hạn chế trong việc điều hòa, phối hợp các DNNN thuộc các bộ trong việc thực hiện các mục tiêu chung, làm giảm hiệu quả phân bổ nguồn lực nhà nước giao;

Thứ ba, việc không tách bạch chức năng chủ sở hữu với chức năng quản lý nhà nước tại các cơ quan nhà nước dễ tạo sự khác biệt không hợp lý trong quản lý giữa DNNN và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là trong chính sách quản lý nhà nước đối với các ngành khai thác tài nguyên, khoáng sản, …. và

trong lĩnh vực sản xuất, cung ứng các sản phẩm dịch vụ cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội trong toàn bộ nền kinh tế và các địa phương.

Thứ tư, mô hình quản lý này chưa tạo được sự đột phá trong sắp xếp, cổ phần hóa và tái cơ cấu DNNN.

Theo quan điểm riêng của tác giả, tác giả đánh giá cao và ủng hộ phương án thành lập Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp để thực hiện chuyên trách chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, đồng thời, tác giả cũng có đề xuất để làm rõ hơn một số khía cạnh và góp phần hoàn thiện của phương án này, cũng như đánh giá những mặt được và khó khăn khi thực hiện phương án này, cụ thể như sau:

Về xây dựng mô hình quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp

Chính phủ thống nhất tổ chức thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước và thành lập Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp để thực hiện các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước. Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp là cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Đây không phải là cơ quan hành chính Nhà nước, không thực hiện chức năng quản lý như các Bộ ngành, UBND tỉnh, thành phố.

Ủy ban quản lý vốn nhà nước sẽ thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh khu vực và trên thế giới với hệ thống quản trị hiện đại và giữ vai trò quan trọng trong thực hiện chiến lược quốc gia, phát triển kinh tế xã hội, cụ thể bao gồm: công ty TNHH MTV do Nhà nước sở hữu 100% vốn là các công ty mẹ trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước (gồm Tổng công ty 91; Tổng công ty 90 có quy mô lớn và Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước); phần vốn nhà nước tại công ty mẹ trong các tập đoàn kinh tế, Tổng công ty 91 và Tổng công ty 90 có quy mô lớn sau khi các công ty này được cổ phần hóa.

Tổng Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) là cơ quan trực thuộc Ủy ban quản lý vốn nhà nước sẽ thực hiện chức năng đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp gồm: công ty TNHH MTV do Nhà nước sở hữu 100% vốn là các công ty mẹ trong mô hình công ty mẹ - con có quy mô không lớn (Tổng công ty 90 có quy

mô không lớn); các công ty TNHH MTV do Nhà nước sở hữu 100% vốn độc lập và phần vốn nhà nước tại Tổng công ty 90 có quy mô không lớn, công ty TNHH MTV độc lập được cổ phần hóa (trừ các công ty do UBND thành phố Hà Nội và TP.HCM thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước).

Các Bộ ngành sẽ đại diện chủ sở hữu các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích chuyên ngành hoặc phục vụ trực tiếp cho quốc phòng, an ninh của quốc gia;

Đối với Hà Nội và TP.HCM là hai trung tâm kinh tế trọng điểm của cả nước và khu vực, tập trung nhiều DNNN, nên giao UBND Thành phố trực tiếp thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp trên địa bàn. Theo đó, UBND thành phố Hà Nội và TP.HCM thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với các doanh nghiệp trên địa bàn, bao gồm: các Tổng Công ty, các Công ty TNHH MTV độc lập và phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp này sau khi được cổ phần hóa.

Tại TP.HCM, để UBND thành phố thực hiện tốt chức năng diện chủ sở hữu nhà nước và quản lý tốt các doanh nghiệp nhà nước, có thể thí điểm hình thành một Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước trên địa bàn trên cơ sở nền tảng là Công ty Đầu tư Tài chính Nhà nước TP.HCM (HFIC), bổ sung và hoàn thiện chức năng theo đề xuất đối với SCIC, phát triển đa ngành nghề theo mô hình hoạt động của SCIC để thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các DNNN và doanh nghiệp có vốn góp nhà nước trực thuộc UBND TP.HCM. Đối với thành phố Hà Nội có thể nghiên cứu áp dụng mô hình tương tự Thành phố Hồ Chí Minh.

Về chức năng Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp

Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện chức năng là đầu mối giúp Chính phủ thực hiện các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của Chủ sở hữu nhà nước đối các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp độc lập với các Bộ, ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện chức năng của Ủy ban như: hoạch định mục tiêu, chiến lược phát triển và kế hoạch trung và dài hạn, Ủy ban lấy ý kiến các Bộ quản lý chuyên ngành, địa phương để tham mưu trình Chính phủ phê duyệt.

Một phần của tài liệu Quản lý hiệu quả vốn tại các doanh nghiệp nhà nước - từ thực tiễn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên của thành phố Hồ Chí Minh (Trang 180 - 193)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(215 trang)