1.2.3. Nội dung quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
1.2.3.1. Phân tích xác định rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Người quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng phải phân tích và xác định được loại rủi ro dẫn đến tổn thất cho ngân hàng, trên cơ sở đó đưa ra các biên pháp quản lý rủi ro phù hợp. Ví dụ, với hoạt động phổ biến và tạo ra tới 50% tổng tài sản có cho ngân hàng như hoạt động tín dụng thì thông thường rủi ro đối với hoạt động tín dụng được xác định có các loại sau đây:
Sơ đồ1.1: Các loại rủi ro tín dụng trong kinh doanh ngân hàng
Nguồn: theo Joel Bessis, Risk Management in Banking [26]
RỦI RO TÍN DỤNG
Rủi ro danh mục Rủi ro giao dịch
Rủi ro bảo đảm
Rủi ro Nghiệp vụ Rủi ro
Lựa chọn
Rủi ro Tập trung Rủi ro
Nội tại
16
Qua sơ đồ trên ta thấy rủi ro tín dụng bao gồm rủi ro danh mục (Portfolio risk) và rủi ro giao dịch (Transaction risk).
Rủi ro danh mục được phân thành rủi ro nội tại (Intrinsic risk) và rủi ro tập trung (Concentration risk). Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố mang tính riêng biệt của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành kinh tế. Chẳng hạn, ngành xây dựng vẫn được xem là ngành có rủi ro cao do đặc trưng kinh doanh là vốn đọng nhiều ở các công trình, chi phí xây dựng cơ bản dở dang cao, thời gian thu hồi vốn chậm. Do vậy, đối với các dự án xây dựng, ngân hàng thường phải phân tích rất kỹ lưỡng về dòng tiền, thời gian hoàn vốn và tài sản đảm bảo cho khoản vay trước khi quyết định cho vay. Rủi ro tập trung là mức dư nợ cho vay được dồn cho một khách hàng, một số ngành kinh tế hoặc một số loại cho vay hoặc một khu vực địa lý. Rủi ro này thường phát sinh đối với các trường hợp cho vay tổng công ty bao gồm nhiều công ty con trực thuộc hay cho vay tập trung quá nhiều vào một ngành kinh tế, chẳng hạn ngành kinh doanh gỗ nhập khẩu. Bất kỳ một ảnh hưởng có chiều hướng xấu nào đến ngành nghề kinh doanh làm suy giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp đều có thể ảnh hưởng đến tình hình thanh toán nợ của các doanh nghiệp cho ngân hàng.
Phản ứng mang tính dây chuyền này sẽ gây ra tình trạng nợ xấu, nợ khó đòi với tỷ lệ cao cho ngân hàng do tập trung cho vay quá nhiều các doanh nghiệp kinh doanh gỗ.
Rủi ro giao dịch có 3 thành phần: Rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ. Rủi ro lựa chọn là rủi ro liên quan đến thẩm định và phân tích tín dụng. Rủi ro này có nguyên nhân chủ yếu từ năng lực và trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng sau khi nhận hồ sơ từ khách hàng sẽ tiến hành thẩm định, đánh giá, phân tích về từ cách pháp nhân, năng lực pháp lý, về ngành nghề kinh doanh, công tác và khả năng tài chính của khách hàng.
17
Những yếu tố này có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định có cho vay hay không. Bất kỳ một sự đánh giá sai, lệch lạc nào của cán bộ tín dụng đều có thể dẫn đến rủi ro mất vốn cho ngân hàng.
Rủi ro bảo đảm xuất phát từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong hợp đồng vay, các loại tài sản đảm bảo và mức an toàn của nó. Trong trường hợp khách hàng vay có biểu hiện chậm trả, chậm thanh toán nợ hoặc có thái độ không hợp tác với ngân hàng trong việc trả nợ vay thì lúc đó nguồn trả nợ phụ là tài sản đảm bảo được xem xét tới. Hợp đồng tín dụng là cơ sở pháp lý về quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan đến món vay. Ngân hàng có quyền xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ. Tài sản đảm bảo là nhà đất có độ an toàn cao hơn so với tài sản đảm bảo là xe, máy móc hay hàng hóa. Thực tế đã có nhiều ngân hàng cho vay mua ô tô trả góp với tài sản đảm bảo là chính chiếc xe hình thành từ vốn vay và đã có rủi ro khách hàng bán chiếc xe - tài sản đảm bảo đó đi mà ngân hàng không kiểm soát được.
Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến quản trị hoạt động cho vay như xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng để định hướng cho việc thực hiện cho vay và kiểm soát danh mục cho vay, bao gồm cả việc sử dụng xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề. Một ngân hàng hoạt động tốt là ngân hàng có quy trình hoạt động rõ ràng, có hệ thống báo cáo, xếp hạng rủi ro chặt chẽ và có bộ phận xử lý nợ có chuyên môn. Thực tế nhiều ngân hàng thương mại có quy mô còn nhỏ vẫn chưa có bộ phận xử lý nợ mà toàn bộ các công việc này đều do cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Quy trình cho vay đối với một số sản phẩm mới còn chưa rõ ràng, thậm chí còn chưa có. Những yếu tố này dẫn đến tình trạng cho vay sai so với quy định của ngân hàng Nhà nước và nguy cơ mất vốn cho ngân hàng.
18
Như vậy, để quản lý tốt các rủi ro trong kinh doanh ngân hàng trước hết người quản lý rủi ro phải phân tích và xác định được rủi ro có thể phát sinh trong sản phẩm kinh doanh đó là gì, nguyên nhân gây ra những rủi ro và bản chất của chúng. Từ đó, việc tìm ra những biện pháp khắc phục mới thực sự hữu hiệu.