8. Quy mô tài sản có
2.2. Những biện pháp Việt Nam đã và đang áp dụng để quản lý rủi
2.2.2. Các biện pháp quản lý rủi ro ngoại hối
Đối với các ngân hàng có hai nguyên nhân chính làm phát sinh rủi ro ngoại hối đó là: thứ nhất các ngân hàng mua bán ngoại tệ phục vụ cho khách hàng và mua bán cho chính mình; thứ hai là các ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn bằng ngoại tệ. Cả hai nguyên nhân này tạo ra một trạng thái ngoại tệ ròng đối với
37
hầu hết các ngân hàng thương mại hiện kinh doanh ngoại hối còn phát sinh các rủi ro trong khâu tổ chức, rủi ro do thiếu các công cụ quản lý rủi ro, rủi ro thanh toán và rủi ro về mặt con người và công nghệ.
Tại Việt Nam trong vòng 4-5 năm qua, lạm phát đã tăng khoảng 25%, trong khi tỷ giá hối đoái chỉ tăng khoảng 2,5%. Như vậy, đồng tiền Việt Nam đã tăng giá khá cao, vào khoảng 12,5 đến 15% từ năm 2001 đến nay. Điều này cho thấy một tỷ giá tương đối ổn định trong một chu kỳ lạm phát cao như vậy sẽ dẫn đến một hậu quả tất yếu là thâm hụt thương mại ngày càng lớn, thâm hụt vãng lai ngày càng lớn, từ đó tạo sức ép tăng cầu ngoại tệ, tăng tỷ giá hối đoái. Trong khi đó, vì lạm phát cao, ngân hàng không dám điều chỉnh tăng tỷ giá hối đoái và càng để lâu tình trạng không nới lỏng này thì càng hàm chứa một cú sốc về tỷ giá.
Trong môi trường toàn cầu hoá tài chính - ngân hàng như ngày nay, nhà quản trị ngân hàng ngày càng phải đối mặt nhiều hơn với rủi ro ngoại hối. Do vậy, vấn đề quản lý rủi ro ngày càng được các ngân hàng quan tâm hơn. Các biện pháp hiện đang được phần lớn các ngân hàng thương mại Việt Nam sử dụng trong quản lý rủi ro ngoại hối là:
Thứ nhất, nhóm giải pháp về mặt kỹ thuật nghiệp vụ. Nhóm giải pháp này bao gồm việc xây dựng quy trình kinh doanh ngoại hối bài bản, cho phép quản lý rủi ro trong các giao dịch kinh doanh ngoại tệ và xây dựng hệ thống các hạn mức và các báo cáo phân tích ngoại hối nhằm hạn chế loại rủi ro tỷ giá.
Mô hình kinh doanh ngoại hối tại các ngân hàng thường bao gồm ba bộ phận là bộ phận kinh doanh ngoại hối trực tiếp, bộ phận kiểm soát và quản lý rủi ro và bộ phận thực hiện giao dịch.
Front Office (FO)
Middle Office (MO)
Back Office (BO)
Đàm phán, ký kết Kiểm soát giao dịch Thực hiện các hợp
38
thỏa thuận giao dịch và quản lý rủi ro đồng, các thỏa thuận đã được ký kết bởi FO Sơ đồ 2.1: Mô hình kinh doanh và quản lý rủi ro đƣợc chuyên môn hóa
Nguồn: theo Standard Charterred Bank (2000), Risk Management Handbook.SCB[27].
Sự phân tách thành ba bộ phận nhằm đảm bảo tính độc lập, tránh thông đồng trong giao dịch. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng xây dựng các hạn mức cho cán bộ kinh doanh ngoại hối trực tiếp phù hợp với năng lực, khả năng phán đoán, độ nhạy cảm và kinh nghiệm của từng cán bộ. Các hạn mức quan trọng được ngân hàng chú tâm xây dựng như hạn mức giao dịch trong ngày, hạn mức giao dịch qua đêm, hạn mức trạng thái đối với các kỳ hạn nhất định, hạn mức giao dịch của khách hàng và hạn mức điểm dừng lỗ.
Thứ hai, nhóm giải pháp về mặt thông tin. Nhóm giải pháp này bao gồm việc thu thập thông tin, tìm hiểu tình hình thực tế để xây dựng những báo cáo đánh giá về tình hình hoạt động kinh doanh của các đối tác chiến lược, khách hàng chủ đạo, tiềm năng, các đối thủ cạnh tranh để làm căn cứ cho việc thực hiện các giao dịch kinh doanh ngoại hối tránh rủi ro trong thanh toán. Chẳng hạn, trong giao dịch mua bán kỳ hạn với khách hàng, dựa vào các báo cáo phân tích nêu trên cán bộ kinh doanh ngoại hối có thể kiểm soát được thực tế việc khách hàng có khả năng thực hiện giao dịch khi đáo hạn hay không.
Thứ ba, nhóm giải pháp về mặt con người. Nhận biết được tầm quan trọng của vấn đề nguồn nhân lực và công nghệ thông tin trong kinh doanh ngoại hối nói riêng, ban lãnh đạo ngân hàng đặc biệt chú trọng đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực. Các cán bộ chủ chốt, có năng lực được cử đi học các
39
khóa đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ, sau đó các cán bộ này đào tạo lại cho các cán bộ mới trên cơ sở học hỏi lẫn nhau.