1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện,giành thắng lợi quyết định của đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống mỹ, cứu nước

217 604 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 217
Dung lượng 6,43 MB

Nội dung

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng, đánh thắng các chiến lược chiến tranh nằm trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng mà Mỹ đã áp dụng ở Việt Nam.. Tác phẩm “L

Trang 1

Đại học quốc gia hà nội Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn

-

Phạm Thị Trọng Hiếu

Tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của đảng trong

sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử

Hà Nội - 2008

Trang 2

Đại học quốc gia hà nội Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn

-

Phạm Thị Trọng Hiếu

Tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của đảng trong

sự nghiệp kháng chiến chống mỹ, cứu nước

Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số : 602256

Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử

Hà Nội - 2008

Trang 3

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

Miền Bắc Việt Nam

Miền Nam Việt Nam

MNVN Nxb TCK,TKN TBCN XHCN

Trang 4

Chương 2 Quá trình Đảng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định

2.1 Trong những năm chống “chiến tranh đặc biệt” (1961-1965) 44 2.2 Chỉ đạo giành thắng lợi quân sự, chính trị trong những năm (1965-

1968)

68

2.3 Chỉ đạo tiến lên giành thắng lợi quyết định trong những năm (1969 - 1973) 102

Chương 3 một số vấn đề rút ra từ chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết

3.1 Bám sát thực tiễn cách mạng, đề ra đường lối chiến lược đúng đắn, tổ

chức thực hiện sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả cao

130

3.2 Tuân thủ những nguyên tắc trong thực hành tư tưởng chiến lược tấn

công; thực hiện những “quả đấm chủ lực”, đảm bảo giành thắng lợi

quyết định, buộc địch từng bước xuống thang chiến tranh

133

3.3 Trên cơ sở quán triệt tư tưởng chiến lược tấn công, nắm vững và giải

quyết tốt mối quan hệ giữa đánh lâu dài với tranh thủ thời cơ, giành

thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn, tạo ra bước ngoặt

mới về chiến lược, làm thay đổi cục diện chiến tranh

139

3.4 Đánh giá đúng kẻ thù, nắm vững mục tiêu cuối cùng của cách mạng, để

ra các nghị quyết đúng đắn để chỉ đạo toàn quân, toàn dân, giành thắng

lợi quyết định trong những điều kiện cụ thể, tiến tới giành thắng lợi

hoàn toàn

144

3.5 Nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo quy luật chiến tranh cách mạng,

biết khơi dậy và phát huy cao độ vai trò của nhân tố con người trong

việc thực hiện các quyết định chiến lược

149

Trang 5

Mở đầu

1 Lý do chọn đề tài

Kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta Thắng lợi của cuộc đấu tranh này có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới Thắng lợi này “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế

to lớn và có tính thời đại sâu sắc” [42, tr.471] Nó đã chấm dứt sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc và xóa bỏ chế độ phong kiến ở nước ta, đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội Đến nay, ý nghĩa lịch sử và những bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẫn còn giữ nguyên giá trị, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, những kinh nghiệm đó sẽ góp phần quan trọng giúp ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng, đánh thắng các chiến lược chiến tranh nằm trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng mà Mỹ đã áp dụng ở Việt Nam Trong thời gian từ 1961 đến

1975, với sự tập trung cao nhất về tài chính và quân sự, Mỹ đã triển khai các chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hoá chiến tranh” nhằm mục đích tiêu diệt lực lượng cách mạng của ta, ngăn chặn làn sóng chủ nghĩa cộng sản tràn xuống khu vực Đông Nam á Sớm nhận thấy đế quốc Mỹ là một kẻ thù nguy hiểm có sức mạnh tài chính và quân sự vô cùng to lớn, chúng ta không thể cùng một lúc đánh bại cả đế quốc Mỹ và nguỵ quân, nguỵ quyền nên Đảng ta đã có một

Trang 6

quyết định quan trọng trong chỉ đạo chiến lược kiềm chế địch, giành thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi quyết định và từ đó tạo nên chiến thắng lịch sử mùa xuân 1975 Đó là bước quá độ từ thắng lợi quyết định trên chiến trường trước khi tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn (có

nghĩa là phải “đánh cho Mỹ cút” rồi mới “đánh cho nguỵ nhào”) Nội

dung của thắng lợi quyết định: Mở bước phát triển cho cách mạng miền Nam, từ thắng lợi đó, tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam là xu thế tất yếu, không thể đảo ngược Với việc Mỹ phải ký Hiệp định Pari năm 1973,

chấp nhận rút quân khỏi miền Nam, chúng ta đã giành được thắng lợi quyết định Thắng lợi quyết định đó đã đè bẹp ý chí chiến đấu của kẻ thù, tạo cơ sở và tiền đề vững chắc để chúng ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước Có thể nói, việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định là sự sáng tạo lớn nhất của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Nó đã kế thừa và phát huy kinh nghiệm đấu tranh của Cách mạng Tháng 8 và 9 năm kháng chiến lên đỉnh cao

Đi sâu tìm hiểu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và quá trình chỉ đạo giành thắng lợi quyết định nói riêng sẽ giúp ta thấy được sự khôn khéo, tài tình và sáng suốt của Đảng, làm phong phú thêm những trang

sử vẻ vang, oanh liệt của Đảng Nghiên cứu vấn đề này còn góp phần lý giải

rõ hơn nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cuộc kháng chiến; đồng thời từ quá trình chỉ đạo giành thắng lợi quyết định này có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên đây, chúng tôi chọn “Tư tưởng

chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” làm đề tài luận văn Thạc sỹ lịch

sử của mình

Trang 7

2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975) là đề tài thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước Vì vậy, viết về cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam đã có nhiều sách, chuyên khảo, tham luận hội thảo, bài báo khoa học của các học giả, các cán bộ tham gia lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh Các công trình đó đã đề cập đến sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ta ở những góc độ khác nhau Tiêu biểu như:

Tác phẩm “Nghệ thuật biết thắng từng bước” của Trần Nhâm, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội 1978 Trên cơ sở phân tích đường lối chỉ đạo cách mạng của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tác giả đã khái quát lên những đặc điểm của nghệ thuật “biết đánh” và “biết thắng” đế

quốc Mỹ Tác phẩm “Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ

cứu nước” của Viện Sử học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1985 là tập hợp

nhiều bài viết của các tác giả đề cập đến nguyên nhân thắng lợi, bài học kinh nghiệm, ý nghĩa và tác động to lớn của thắng lợi đối với dân tộc và thời đại Tác phẩm đã làm rõ: chiến thắng đó là thành quả tổng hợp của một loạt các nhân tố nhưng quan trọng nhất là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta

với nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh hết sức tài tình Tác phẩm “Lịch sử kháng

chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975”, 9 tập của Viện Lịch sử quân sự Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội đã khái quát lại toàn bộ cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân từ đó rút ra những đánh giá về cuộc đấu

tranh này Tác phẩm “Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” của Đại

tướng Văn Tiến Dũng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996 cũng trình bày một cách có hệ thống về quá trình đấu tranh giành thắng lợi của nhân dân ta

đồng thời nêu lên những kết luận về chỉ đạo chiến lược Tác phẩm “Mấy vấn

đề chỉ đạo chiến lược trong 30 năm chiến tranh giải phóng 1945 - 1975)” của

Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1999 đã

Trang 8

tổng kết nghệ thuật chỉ đạo chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp

và chống Mỹ Tác phẩm “Ba mươi năm chiến tranh giải phóng - những trận

đánh đi vào lịch sử”, nhiều tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2005 là

công trình công phu của nhiều tác giả về cuộc chiến đấu trường kỳ, các tác giả

đã tổng kết, phân tích, đánh giá v.v tứng trân đánh tiêu biểu để đi đến kết luận vì đâu mà cuộc đấu tranh của nhân dân ta thắng lợi

Nghiên cứu về vấn đề này, tác giả Nguyễn Xuân Tú với đề tài Luận án

Tiến sỹ “Đảng chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong cuộc kháng chiến

chống Mỹ cứu nước thời kỳ 1965 - 1975” (năm 2001) đã dựng lại diễn biến

cuộc kháng chiến thời kỳ này để làm rõ những chiến lược, sự lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể của Đảng Cộng sản Việt Nam giành thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm

Luận án Tiến sỹ “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chống chiến lược

“Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ từ 1969 đến 1975” (năm 2007)

của tác giả Lê Văn Mạnh đã làm rõ sự chỉ đạo chiến lược của Đảng trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh

Ngoài ra, trên các tạp chí còn có rất nhiều bài viết của các tác giả đề cập đến vấn đề Đảng chỉ đạo đấu tranh giành thắng lợi trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ, tiêu biểu là các bài viết: Lê Xuân Lựu (1997) “Nghệ thuật

đánh thuật đánh thắng địch từng bước, tạo thời cơ giành thắng lợi hoàn toàn”, Tạp chí Cộng Sản, số 8; Nguyễn Huy Thục (1995) “Những năm tháng chiến đấu quyết định buộc Mỹ ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh”, Tạp chí

Quốc phòng toàn dân, số 4; Nguyễn Thế Vị (2005) “Đánh cho Mỹ cút, đánh

cho nguỵ nhào - biện chứng của quy luật đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 12; Nguyễn Văn Bạo (2007)

“Xác định mục tiêu chiến lược và mục tiêu chủ yếu trước mắt trong chỉ đạo

Trang 9

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4 v.v… Ngoài

ra còn nhiều bài viết khác cũng đề cập ít nhiều đến vấn đề này

Các học giả nước ngoài, chủ yếu là người Mỹ đã từng trực tiếp tham gia chiến đấu hoặc từng nghiên cứu về cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã có khá

nhiều công trình viết về vấn đề này Tiêu biểu như: “Giải phẫu một cuộc

chiến tranh” tập 1, tập 2 (G.Côncô, Nxb Quân đội nhân dân, năm 1989 và

1991); “Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ” (C.Herring, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998); “Nhin lại quá khứ - Tấn thảm kịch và

những bài học về Việt Nam” (R.S.Mc Namara, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội 1995); “Việt Nam - Cuộc chiến tranh mười ngàn ngày” (M.Maclia, Nxb

Sự thật, Hà Nội, 1990)… Những tác phẩm này đã góp phần phản ánh cục diện cuộc chiến tranh ở Việt Nam nhưng do mục đích và lập trường khác nhau nên phần lớn các tác giả chưa đánh giá đúng thực chất của cuộc chiến tranh này, tuy vậy họ vẫn phải thừa nhận thất bại đó và thừa nhận vai trò to lớn của Đảng ta trong việc lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước

Những tài liệu trên nhìn chung mới chỉ dừng lại ở việc khái quát và tổng kết cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, đi sâu vào một vấn đề cụ thể trong một giai đoạn nhất định hoặc sự chỉ đạo đấu tranh của Đảng trên một số lĩnh vực khác nhau Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Tuy nhiên, những kết nghiên cứu trên đã được chúng tôi kế thừa để thực hiện luận

văn này

3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trang 10

Đối tượng: nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách và quá trình

tổ chức chỉ đạo giành thắng lợi quyết định của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu những chủ trương, biện pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức chỉ đạo giành thắng lợi quyết định trong

sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam thời kỳ Mỹ thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt đến khi Mỹ ký Hiệp định Pari (1961-1973)

4 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Từ thực tiễn nghiên cứu, đánh giá những thắng lợi đã đạt được và rút

ra những kinh nghiệm chỉ đạo giành thắng lợi quyết định của Đảng trong thời

kỳ chiến tranh này

Nhiệm vụ:

- Tập hợp các tư liệu có liên quan đến đê tài nghiên cứu

- Hệ thống hoá những tài liệu theo từng giai đoạn lịch sử gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể

- Tổng hợp, phân tích những chủ trương, biện pháp của Đảng cũng như những kết quả của nó trong quá trình tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định

5 Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu

Trang 11

Để hoàn thành luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic là chủ yếu Bên cạnh đó, sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh cố gắng làm rõ những nội dung của đề tài

Nguồn tài liệu được thu thập và xử lý trong quá trình làm luận văn chủ yếu là các tài liệu về sự chỉ đạo của cả địch và ta như: Văn kiện Đảng toàn tập gồm các tập từ năm 1960 đến 1973 và 1976, Thư vào Nam, Nghị quyết các cấp bộ Đảng, các chỉ thị, báo cáo tổng kết, kế hoạch, phương án tác chiến ; Các báo cáo, luận án, công trình nghiên cứu, các bài viết của các học giả; Các công trình tổng kết, sách lịch sử, biên niên sự kiện, hồi ký của các nhà hoạch định và chỉ đạo chiến tranh; Các công trình nghiên cứu, hồi ký của các học giả nước ngoài, chủ yếu là của những người ở bên kia chiến tuyến viết về

cuộc chiến tranh Việt Nam

6 Đóng góp mới của luận văn

- Hệ thống lại quá trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

- Phân tích tính sáng tạo, cách mạng của Đảng, kế thừa kinh nghiệm chín năm kháng chiến 1945-1954 lên đỉnh cao

7 Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Phụ lục luận văn được cấu trúc thành 3 chương, 10 tiết

Trang 12

Đây là điều có ý nghĩa phương pháp luận để phân tích một cuộc chiến tranh, đặc biệt như cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Việt Nam, mà quy mô của nó đụng chạm đến toàn bộ các mối quan hệ quốc tế Đó còn là cơ

sở khách quan để Đảng ta đề ra đường lối, phương pháp, chiến lược và sách lược cách mạng đúng đắn khi tiến hành đấu tranh

Có như vậy chúng ta mới có thể cắt nghĩa được vì sao một nước nhỏ

bé, nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam lại có thể giành được thắng lợi trước một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới

1.1 Điều kiện khách quan của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

1.1.1 Âm mưu của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam

Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã trải qua những năm tháng chiến đấu cam go, ác liệt: với một nghìn năm Bắc thuộc, ta đã phải ra sức chiến đấu để bảo vệ nền độc lập chống lại sự đồng hóa của các vương

Trang 13

triều phong kiến phương Bắc; ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông; gần một trăm năm kháng chiến chống thực dân Pháp; hơn hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Nhưng thành quả đạt được trong sự nghiệp kháng chiến chống quân xâm lược đã minh chứng cho tinh thần quật cường của dân tộc ta, vượt mọi khó khăn, gian khổ để giành lấy hoà bình, độc lập cho dân tộc

Khác với các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đó, cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong điều kiện hoàn toàn khác Kẻ thù mà nhân dân ta phải đương đầu trong cuộc chiến này là một “đế quốc hùng mạnh nhất, giàu có nhất, tàn bạo, nham hiểm, hiếu chiến nhất”; có trong tay chiến lược toàn cầu phản cách mạng Nếu so về thời gian thì cuộc chiến này không dài bằng các cuộc chiến tranh trước đó nhưng so về tương quan lực lượng thì đây là cuộc chiến tranh có “một tương quan lực lượng chênh lệch nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta về phương thức sản xuất cũng như tiềm lực kinh tế, quân sự”[7, tr.65]

Về mặt kinh tế: Do có sự tính toán khôn khéo, Mỹ đã tham gia chiến

tranh thế giới thứ hai nhưng không những không bị chiến tranh tàn phá như các nước khác mà còn thu về cho mình một nguồn lợi khổng lồ nhờ buôn bán

vũ khí Vì thế, Mỹ đã phát triển mạnh mẽ và trở thành đế quốc giàu có nhất thể giới, chiếm ưu thế tuyệt đối về mọi mặt trong thế giới tư bản Mỹ có một nền công nghiệp và nông nghiệp phát triển cao Sản lượng công nghiệp Mỹ chiếm quá nửa tổng sản lượng công nghiệp của thế giới tư bản (56,4% năm 1948) Sản lượng nông nghiệp cũng gấp hai lần sản lượng của Anh, Pháp, Cộng hoà liên bang Đức, Italia, Nhật cộng lại (1949) [103, tr.286] Về tài chính, Mỹ có khối lượng vàng dự trữ lớn nhất thế giới (gần 25 tỷ đôla năm

1949, chiếm 3/4 lượng vàng của thế giới tư bản) Mỹ đã trở thành chủ nợ duy

Trang 14

nhất trên thế giới, ngay cả các chủ nợ trước kia của Mỹ như Anh, Pháp cũng trở thành con nợ của Mỹ

Nhằm thiết lập sự thống trị độc tôn của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới, Mỹ đã tiến hành một chiến lược toàn diện bao gồm các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao

Để thi hành chính sách bành trướng, đế quốc Mỹ lợi dụng tình cảnh các nước tư bản bi suy yếu trong chiến tranh, chưa kịp hồi phục, đã thông qua chiêu bài viện trợ kinh tế, quân sự khống chế các nước đó, đẩy các nước này xuống vai trò phụ thuộc Mỹ thậm chí làm tay sai thực hiện một số chủ trương, chính sách của Mỹ

Về mặt quân sự: Mỹ đã ráo riết chạy đua vũ trang, phát triển vũ khí hạt nhân,

thiết lập các khối liên minh quân sự xâm lược như NATO ở châu Âu, SEATO

ở châu á, ANZUS ở châu Đại Dương, CENTO và ký kết hàng loạt hiệp ước

quân sự tay đôi với nhiều nước trên thế giới, ra sức chuẩn bị cho chiến tranh,

tiến hành các hoạt động khuynh đảo, lật đổ, đảo chính ở nhiều nơi trên

thế giới

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ do có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh mẽ đã trở thành tên đế quốc đầu sỏ trong hệ thống tư bản chủ nghĩa Với tham vọng bá chủ toàn cầu, Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng để tìm cách mở rộng phạm vi thống trị của mình ra các khu vực khác, trở thành kẻ gây chiến, xâm lược quốc tế lớn nhất, đại diện tiêu biểu cho chủ nghĩa thực dân mới và là kẻ thù nguy hiểm nhất của phong trào cách mạng thế giới

Chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mỹ được hình thành dưới thời tổng thống Tơruman và được điều chỉnh qua các thời tổng thống sau này cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng thời kỳ

Trang 15

Chiến lược này được cấu thành bởi ba bộ phận mà tướng Uy lơ đã nêu ra:

- Chúng ta sẵn sàng tham gia trực tiếp hơn và mạnh mẽ hơn vào bất

cứ tình huống cân bằng lực lượng nào có khả năng diễn ra ở châu

Âu

- Chúng ta là một dân tộc chủ chốt ở phương Tây có khả năng đưa sức mạnh của mình vào Thái Bình dương để tác động tới những diễn biến ở đây

- Nếu có ai đó có ý định ngăn chặn các bước tiến thô bạo sau chiến tranh của sức mạnh cộng sản hoặc những hình thức kín đáo hơn sau này, thì người đó phải là chúng ta[24, tr.8]

Như vậy, Mỹ đã tự gán cho mình trách nhiệm đứng đầu các nước tư bản chủ nghĩa để bảo vệ “thế giới tự do”, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản Nhưng thực chất đó chỉ là sự bao biện cho âm mưu bành trướng của mình, như nhà sử học Mỹ G Côncô đã nhận định:

Mỹ hành động không phải vì ý muốn bảo vệ đất nước chống lại bất

cứ mối đe doạ cụ thể nào mà vì Mỹ muốn tạo ra ở nơi khác một trật

tự có thể kiểm soát được sẵn sàng đáp ứng một cách có lợi các mục tiêu và lợi ích của Mỹ, vượt xa những nhu cầu trong nước Mỹ tin rằng sức mạnh của Mỹ đủ sức điều chỉnh thế giới và chịu đựng những tổn phí như các cường quốc đế quốc trước đây đã làm để hoàn thành nghĩa vụ và trách nhiệm quốc tế [16, tr.92]

Mỹ đề ra 3 mục tiêu cho chiến lược toàn cầu: ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới tiêu diệt hệ thống xã hội chủ nghĩa; uy hiếp, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc ở các nơi; kìm chế sự phát triển của các nước tư bản đồng minh, lôi kéo các nước khác tham gia vào lực lượng phản động quốc tế do Mỹ cầm đầu

Trang 16

Mục đích chính của chiến lược đó là “nhằm ngăn chặn sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng thế giới, nhất là phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Liên Xô là trụ cột” [24, tr.6] Và Mỹ đã đề ra một chính sách đối ngoại, được giới chính trị và quân sự Mỹ khái quát bằng cái tên “ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản” Các nhà hoạch định chiến lược của Mỹ cho rằng nếu để cho chủ nghĩa cộng sản tràn xuống khu vực Đông Nam á thì Mỹ sẽ mất vị trí chiến lược ở Viễn Đông Nhất là sau khi cách mạng Trung Quốc (1949) thắng lợi, họ càng lo sợ hơn vì nếu mất thêm Đông Nam á thì Nhật Bản không còn lựa chọn nào khác là dung hoà với chủ nghĩa cộng sản ở khu vực này và khi

đó, một chuỗi đảo ngoài khơi chạy dài từ Nhật Bản đến Philippin - tuyến phòng thủ đầu tiên của Mỹ ở Thái Bình Dương sẽ lâm nguy Mỹ đã đưa ra quyết định chính thức vạch ra một đường ranh giới không cho xuất hiện thêm bất kỳ quốc gia cộng sản mới nào nữa ở châu á Do đó, Mỹ phải nhanh chóng

có những biện pháp xử lý để bảo vệ khu vực “có tầm sinh tử đối với an ninh của Mỹ” [47, tr.17]

Vì vậy, địa bàn Đông Nam á nói chung và Đông Dương nói riêng có vị trí chiến lược quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ Đây là nơi có những nguồn lợi rất lớn về kinh tế, quân sự, chính trị mà Mỹ có thể thâu tóm được

Về mặt kinh tế: Đông Nam á là một vùng có nguồn tài nguyên thiên

nhiên phong phú, có nhiều loại nguyên liệu mà Mỹ đang thiếu, là thị trường tiêu thu sản phẩm khổng lồ, các nhà lãnh đạo Mỹ không muốn mất quyền lợi

ở đây và đã sớm bộc lộ tham vọng muốn độc chiếm Đông Nam á Đây là một trong những mục tiêu chiến lược của chính sách bành trướng thực dân mới về mặt kinh tế của đế quốc Mỹ

Về mặt quân sự: Đông Nam á là một vùng địa lý chiến lược quan trọng,

là ngã ba của đầu mối giao thông giữa các lục địa châu á, châu Phi và châu

Trang 17

Đại Dương Đông Nam á từ lâu đã trở thành một địa bàn chiến lược trong kế hoạch xâm lược của các nước tư bản phương Tây Mỹ đã tìm cách hất cẳng Anh, Pháp để chiếm lấy khu vực này Mỹ đã tập trung nhiều cho việc bố trí lực lượng quân sự ở khu vực này, năm 1967, tổng số quân Mỹ đóng quân ở đây lên tới 850.000 quân trong khi đó ở châu Âu chỉ có 491.000 tên; năm

1970 là 797.000 tên ở đây còn châu Âu là 310.000 tên Thời kỳ cao nhất lên đến 4 tập đoàn không quân, 2 hạm đội tăng cường, số sư đoàn lục quân và lính thủy đánh bộ gần gấp 3 lần số quân sĩ đóng ở Tây Âu [80, tr.20] Như thế

đủ thấy sức mạnh to lớn về quân sự của Hoa kỳ ở đây và sự quyết tâm thực hiện bằng được mưu đồ thay chân các đế quốc khác chiếm đóng khu vực này

Về mặt chính trị: Đông Nam á là khu vực có phong trào giải phóng dân

tộc phát triển, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của phong trào cách mạng vô sản thế giới nhất là Việt Nam và Đông Dương, lúc nào cũng có thể bùng nổ một cuộc cách mạng vô sản Việt Nam và Đông Nam á đã trở thành nơi tập trung các mâu thuẫn của thời đại Mỹ đã rất lo sợ điều đó, vì thế mà chúng tập trung lực lượng lớn hòng bóp nghẹt phong trào cách mạng ở đây nhằm tránh hiểm hoạ chủ nghĩa cộng sản tràn xuống khu vực Đông Nam á Chính vì vậy, Mỹ đã thành lập tổ chức SEATO nhằm tập hợp lực lượng các nước chư hầu để đối phó với phong trào cách mạng ở đây Mỹ đã ý thức sâu sắc về quyền lợi sống còn và vị chí chiến lược của vùng Đông Nam á, nếu thua cuộc ở khu vực này thì sẽ dẫn đến hiệu ứng đôminô - một sự sụp đổ dây chuyền ở khắp mọi nơi

Trong khu vực Đông Nam á, Mỹ đặc biệt quan tâm đến Đông Dương bởi chúng đều nhận thấy tầm quan trọng của khu vực này đối với sự thành công của chiến lược toàn cầu phản cách mạng và cho rằng đây là vị trí then chốt trong việc bảo vệ Đông Nam á: “Đông Dương được xem là quan trọng vì

có nhiều nguyên liệu, gạo và các căn cứ hải quân, nhưng người ta còn cho rằng khu vực này có tầm quan trọng lớn hơn nhiều xét về tác động có thể xảy

Trang 18

ra đối với các khu vực khác nếu Đông Dương thất thủ”[14, tr91] Vì thế, Mỹ

đã chọn Việt Nam và Đông Dương làm nơi thi điểm thực hành chủ nghĩa thực dân mới, biến nơi đây thành bàn đạp để thiết lập ảnh hưởng ở châu á Quốc vụ khanh Mỹ D Rusk đã từng tuyên bố trước tiểu ban đối ngoại của Quốc hội

Mỹ: “Viễn Đông, Việt Nam và các nước phụ cận là một trong những chiến

trường quyết định trong cuộc đấu tranh nhằm duy trì trật tự thế giới lâu dài

và vững chắc”[1, tr.29]

Chính vì ý nghĩa đó mà Vịêt Nam “đã trở thành tiêu điểm của cuộc

đấu tranh quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới, là nơi

đọ sức điển hình giữa tiến bộ và phản động, giữa chính nghĩa và phi nghĩa trong cuộc đấu tranh của nhân loại vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” [7, tr.65]

Tầm quan trọng của Việt Nam và Đông Dương đã làm cho đế quốc Mỹ tập trung đến mức cao nhất về tài chính và quân sự cho cuộc chiến tranh ở đây Mỹ đã thực thi hết chiến lược chiến tranh này đến chiến lược chiến tranh khác nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng Mỹ

cho rằng “nếu đẩy lùi và ngăn chặn được cách mạng Việt Nam và Đông

Dương, áp đặt được chính sách thực dân mới của Mỹ ở đây, thì chúng có thể thẳng tay bóc lột tài nguyên của Việt Nam và Đông Dương, đẩy lùi và ngăn chặn được cả ba dòng thác cách mạng ở Đông Nam á và nhiều nơi khác trên thế giới” [76, tr.14] Kết cục ở Việt Nam sẽ chứng minh đầy đủ ý chí và khả

năng của đế quốc Mỹ trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng “Tất cả những điều đó nói lên vị trí then chốt của Việt Nam trong cuộc đụng đầu lịch sử này, đồng thời cũng nói lên tính chất gay go của cuộc đọ sức quyết liệt giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ” [80, tr.26]

Trang 19

Để đạt được mục đích của mình, đế quốc Mỹ đã huy động một khối lượng bom đạn, vật chất kỹ thuật không lồ chưa từng có; đã sử dụng mọi loại

vũ khí hiện đại nhất trừ bom nguyên tử; đồng thời chúng đưa vào nước ta:

Một đội quân viễn chinh hơn 60 vạn tên, gồm quân Mỹ và quân của năm nước chư hầu của Mỹ làm nòng cốt cho hơn một triệu quân nguỵ; riêng về quân đội Mỹ, chúng đã huy động lúc cao nhất tới 68% bộ binh, 60% lính thuỷ đánh bộ, 32% lực lượng không quân chiến thuật, 50% lực lượng không quân chiến lược Nếu tính cả số quân đóng ở nước ngoài tham chiến ở Việt Nam thì chúng đã sử dụng hơn 80 vạn quân Mỹ, trong cả cuộc chiến tranh, chúng đã động viên tới 6 triệu lượt binh sĩ Mỹ, ném xuống đất nước ta 7 triệu 850 nghìn tấn bom và tiêu tốn 352 tỷ đôla Ngoài ra chúng còn dùng những phát minh khoa học, kỹ thuật mới nhất để gây vô vàn tội ác huỷ diệt đối với nhân dân ta [42, tr.483]

Với âm mưu nham hiểm đó, Mỹ đã triển khai chiến lược toàn cầu phản cách mạng mà Việt Nam được chọn làm nơi thí điểm

Từ năm 1953 đến 1960, sau khi thay thế tổng thống Tơruman, Aixenhao đã cho thực hiện một chiến lược quân sự toàn cầu mới được mang tên “trả đũa ồ ạt” Dựa trên lực lượng quân sự Mỹ và hệ thống liên minh quân

sự, Mỹ tiến hành chiến lược này với mục tiêu “dùng vũ khí hạt nhân làm chiếc ô che chắn để bảo vệ cho các chế độ tay sai của Mỹ, sẵn sàng đánh trả ồ

ạt thẳng vào các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa”[24, tr.16] Lực lượng hạt nhân chiến lược mà Mỹ dùng làm lá chắn được cấu thành bởi bộ ba vũ khí: tên lửa mang đầu đạn hạt nhân, tàu ngầm nguyên tử trang bị tên lửa mang đầu đạn hạt nhân và máy bay ném bom chiến lược mang bom hạt nhân Để tăng cường sức mạnh quân sự, Mỹ đã sản xuất hàng loạt các loại máy bay

Theo tư liệu của Hoa kỳ, số lính Mỹ tham chiến trong chiến tranh Việt Nam khoảng 4 triệu người

Trang 20

ném bom chiến lược như B52, B47 và các loại tên lửa vượt đại châu Tính đến năm 1960, Mỹ có gần 400 máy bay B52, khoảng 1400 máy bay B47, 110 tàu ngầm, có tới 36 liên đội bay ném bom hạng nặng và 104 liên đội bay ném bom hạng trung [24,tr.18] Với ưu thế về vũ khí hạt nhân, Mỹ đã quyết liệt chống phá phong trào cách mạng thế giới và cũng tại thời điểm này Mỹ dần can thiệp vào Việt Nam thông qua việc tăng cường viện trợ quân sự để Pháp kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương Đây là giai đoạn đầu tiên của một phần tư thế kỷ mà Mỹ đã trực tiếp dính líu vào cuộc chiến tranh Việt Nam Mỹ đã viện trợ cho Pháp lên tới 1,264 tỉ đôla trong năm 1954 (chiếm khoảng 73% kinh phí chiến tranh và tính tổng trong 4 năm (1950 - 1954) lên tới 2,6 tỉ đôla Tuy vậy, sự viện trợ này của Mỹ cũng không cứu vãn nổi thất bại của Pháp trên chiến trường Đông Dương

Tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của ta thắng lợi, Hiệp định Giơnevơ được ký kết Đây là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta

và là cơ sở pháp lý để ta tiếp tục đấu tranh hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước Thắng lợi này đã làm suy yếu một hướng chiến lược trọng yếu trong chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ Chính vì vậy,

Mỹ đã tìm cách phá hoại hiệp định Giơnevơ, phá hoại công cuộc thống nhất nước nhà bằng mọi biện pháp tàn ác và thâm hiểm, cai trị miền Nam bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới hòng thay thế thực dân Pháp xâm lược Việt Nam Sau Hội nghị Giơnevơ về Việt Nam, ngoại trưởng Mỹ Đalét đã tuyên bố:

“điều quan trọng nhất, không phải khóc than cho quá khứ mà phải nắm lấy cơ hội tương lai nhằm ngăn chặn không để mất miền Bắc Việt Nam, để cuối cùng dẫn đến chỗ chủ nghĩa cộng sản có ưu thế trên toàn cõi Đông Nam á và Tây Nam Thái Bình Dương”[47, tr.53] Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm ra để dựng lên một chính quyền tay sai phục vụ cho mưu đô thôn tính Việt Nam của mình

Trang 21

Sớm nhận thấy âm mưu của địch, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới, và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương”[55, tr.23] Do vậy,

cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong giai đoạn này phải tập trung chĩa mũi

nhọn vào đế quốc Mỹ với chính sách thực dân mới của chúng

Chính sách thực dân mới là con đẻ của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, của chính sách đế quốc thực dân Nó ra đời trong cơn tổng khủng hoảng và trước nguy cơ sụp đổ sau chiến tranh thế giới thứ hai của chủ nghĩa tư bản Bản chất của chủ nghĩa thực dân mới đã được Đảng sớm nhận ra và khái quát trong Nghị quyết 9 của Trung ương: Đặc điểm chủ yếu của chính sách thực dân là

đế quốc Mỹ không trực tiếp cai trị mà thông qua chính quyền tay sai, dùng viện trợ kinh tế và quân sự để áp bức, bóc lột nhân dân miền Nam

Trong thời kỳ đầu của cuộc cách mạng, chúng ta chưa thể hình dung và thấy rõ chính sách thực dân mới mà phải trải qua thực tiễn đấu tranh mới hiểu đầy đủ bản chất và thủ đoạn của chính sách này Về chính trị, Mỹ không thiết lập bộ máy thực dân thông qua chính quyền tay sai với chiêu bài quốc gia, dân chủ giả hiệu Về quân sự, Mỹ tin dùng và ra sức xây dựng quân đội nguỵ

đủ mạnh làm lực lượng chiến đấu cho chúng Với hai mặt chính trị và quân sự như vậy, Mỹ thể hiện một ý đồ nham hiểm là khơi sâu và làm đậm nét tính chất nội chiến của cuộc chiến tranh, che đậy bản chất thực dân xâm lược của chúng Về kinh tế, Mỹ dùng viện trợ làm công cụ chủ yếu để giữ chính quyền tay sai ở miền Nam đi vào con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, đối lập với miền Bắc, chia cắt lâu dài nước ta Về văn hoá - xã hội, chúng ra sức du nhập lối sống Mỹ, văn hoá Mỹ hòng phá hoại truyền thống văn hoá Việt Nam

Như vậy, ngay từ thời điểm này Mỹ với chính sách thực dân mới đã trở thành kẻ thù số một của nhân dân Việt Nam và phong trào cách mạng thế

Trang 22

giới Cuộc chiến tranh ở Việt nam đã trở thành nơi đọ sức giữa hai lực lượng quốc tế: lực lượng cách mạng và lực lượng phản cách mạng

Sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới mà đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc ở châu á, châu Phi, châu Mỹ La Tinh đã làm cho chiến lược “trả đũa ồ ạt” của Mỹ bị phá sản Nhưng không phải vì thế mà Mỹ chịu dừng lại, với bản tính ngoan cố và âm mưu bành trướng của tên sen đầm quốc

tế, Mỹ đã thay đổi chiến lược quân sự toàn cầu từ “trả đũa ồ ạt” sang “phản ứng linh hoạt”

Chiến lược “phản ứng linh hoạt” được Kennơdi khi lên nắm quyền tổng thống phê chuẩn làm chính sách quân sự quốc gia của Mỹ và được áp dụng cả dưới thời tổng thống Giônxơn Trong thời kỳ này, Mỹ chú trọng phát triển vũ khí thông thường nhưng vẫn ra sức xây dựng lực lượng hạt nhân

Những điểm chủ yếu trong chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ trong những năm 1961 - 1968 là:

- Nhấn mạnh khả năng “huỷ diệt chắc chắn” do lực lượng chiến lược gây ra;

- Nhấn mạnh khả năng “phản ứng linh hoạt” trong chiến lược của khối NATO;

- Vạch kế hoạch nhằm mục tiêu đạt khả năng tiến hành chiến tranh lớn đồng thời trên cả hai chiến trường châu Âu và châu á;

- Xây dựng khả năng chiến đấu và huấn luyện cho các quân đội nước khác để họ tự chiến đấu trong những cuộc chiến tranh hạn chế và chống nổi dậy;

- Thi hành những chương trình viện trợ kinh tế và quân sự lớn, nhưng sẽ được giảm dần[24, tr.25]

Sự thay đổi chiến lược này có ý nghĩa nhấn mạnh hơn nữa vai trò đảm nhiệm gánh nặng của thế giới tự do, trong cuộc xung đột không hạt nhân của

Trang 23

Mỹ Điều này thể hiện rõ trong bài diễn văn nhậm chức của tổng thống Kennơdi ngày 20-1-1960: “Chúng ta làm cho mọi người biết rằng chúng ta sẽ trả bất cứ giá nào, gánh vác bất cứ gánh nặng nào, đương đầu với bất cứ sự gian khổ nào, ủng hộ bất cứ bạn bè nào, chống lại bất cứ kẻ thù nào, để bảo đảm sự sống còn và thắng lợi của thế giới tự do”[24, tr.29]

Trong chiến lược “phản ứng linh hoạt” này, Mỹ một mặt ra sức chuẩn

bị cho chiến tranh hạt nhân nhưng loại chiến tranh này lại không có lợi cho

Mỹ và ít có khả năng xảy ra vì thế một mặt Mỹ phát triển các cuộc “chiến tranh hạn chế” Loại chiến tranh này vừa không nguy hiểm, vừa có thể dễ dàng giành thắng lợi “Chiến tranh hạn chế” gồm hai hình thức: đó là “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ” Mỹ coi đây là lưỡi kiếm tiến công sắc bén vào những nơi nguy hại nhất của thế giới tự do Để tiến hành chiến lược này, Mỹ tiếp tục tăng cường lực lượng hạt nhân, phát triển lực lượng vũ trang thông thường và tiếp tục duy trì, củng cố hệ thống các liên minh quân sự của mình cũng như các nước đồng minh

Miền nam Việt Nam được Mỹ dùng làm nơi thử nghiệm chiến lược này với hai loại hình chiến tranh mới là “chiến tranh đặc biệt”, dùng quân đội Sài Gòn làm lực lượng chiến lược chủ yếu, quân Mỹ giữ vai trò cố vấn chỉ huy và

“chiến tranh cục bộ” dùng quân viễn chinh Mỹ làm lực lượng nòng cốt

Hoa Kỳ đã coi miền Nam Việt Nam là một điểm nóng của phong trào giải phóng dân tộc mà họ phải tập trung đối phó Họ cũng nhận thức rất rõ vai trò quan trọng của việc thử nghiệm loại hình chiến tranh này ở Việt Nam, nếu thắng lợi sẽ tạo ra sự bình ổn ở khu vực và gây tiếng vang cho chiến lược

“phản ứng linh hoạt” của mình Tướng M.Taylo cha đẻ của chiến lược “phản ứng linh hoạt” đã xác định: “Nếu chương trình của Mỹ thành công ở Nam Việt Nam thì sẽ dẫn tới ổn định được toàn bộ tình hình ở Đông Nam á, nếu

Trang 24

thất bại thì sẽ có ảnh hưởng lớn đến những thành quả của Mỹ ở châu á”[24,tr.29]

Để thực hiện ý đồ của mình, Mỹ đã tập trung cao nhất về tài chính và quân sự cho cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam, từ chỗ dùng quân nguỵ làm tay sai cùng với tiền của, vũ khí và sự chỉ huy của Mỹ đến việc trực tiếp đưa quân Mỹ vào xâm lược nước ta đã làm cho cục diện cuộc chiến tranh trở nên

vô cùng khó khăn, ác liệt

Trong vòng bốn năm thực hiện “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ đã tập trung đầu tư huấn luyện và phát triển quân nguy từ 27 vạn tên năm 1961 lên đến 56 vạn tên năm 1965 nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược là bình định miền Nam trong vòng 18 tháng nhưng những mục tiêu của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” mà Mỹ đề ra không những không thực hiện được mà còn bị phá sản Để cứu vãn tính thế, Mỹ đã chuyển cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam từ hình thức “chiến tranh đặc biệt” sang hình thức “chiến tranh cục bộ” Chỉ từ năm

1965 đến 1968, cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền Nam đã được đẩy lên mức cao nhất Lực lượng tham chiến tại miền Nam lúc này đã lên tới 55,5 vạn quân nguỵ Sài Gòn, 53,5 vạn quân viễn chính Mỹ và 7,26 vạn quân Nam Triều Tiên, Thái Lan, Philippin, Ôxtrâylia Mỹ cũng đã sử dụng hàng nghìn máy bay ném hơn 70 vạn tấn bom và hàng trăm tàu chiến bắn phá miền Bắc Việt Nam Để duy trì một lực lượng tham chiến lớn như vậy trên chiến trường Việt Nam, Mỹ phải thường xuyên huy động tới 150 vạn quân thay phiên, bổ xung (chiếm 43% tổng số quân thường trực của cả nước) Chi phí cho cuộc chiến này tính riêng năm 1968 đã lên tới 26,5 tỷ đôla (chiếm 34% tổng chi tiêu của Bộ Quốc phòng Mỹ) [24, tr31] Đây là cuộc chiến tranh mà Mỹ đã sử dụng những kỹ thuật quân sự mới nhất có trong tay lúc bấy giờ và chi tiêu lớn nhất cho cuộc viễn chinh xâm lược này

Trang 25

Tuy đã có những cố gắng cao nhất về quân sự và tài chính nhưng Mỹ ngày càng thất bại nặng nề trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và thất bại này đã ảnh hưởng tác động nghiêm trọng đến toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của nước Mỹ không những buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược

ở Việt Nam mà còn làm đảo lộn và buộc Mỹ thay đổi cả chiến lược toàn cầu của chúng

Trong những năm 1969 - 1973, sau khi lên nắm quyền Nichxơn đã đề

ra chiến lược quân sự toàn cầu mới mang tên “ngăn đe thực tế” dựa trên “học thuyết Nichxơn” Học thuyết này được cấu thành bởi ba bộ phận:

1 Chia sẻ trách nhiệm - Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho các nước đồng minh, còn các nước đồng minh phải thực hiện

“nghĩa vụ” của mình trong khu vực;

2 Xây dựng sức mạnh - Mỹ gánh chịu phần chủ yếu về lực lượng hạt nhân chiến lược, nhưng các nước đồng minh phải cùng Mỹ

“chung sức gánh vác” việc xây dựng lực lượng tác chiến trên khu vực chiến trường;

3 Thương lượng - Mỹ thương lượng với các nước đồng minh thành lập những liên minh khu vực, thương lượng giải quyết xung đột xảy ra giữa các nước thứ ba, thương lượng với Liên Xô về việc hạn chế sự phát triển vũ khí chiến lược[24, tr.34]

Vận dụng “học thuyết Nichxơn” và chiến lược quân sự “ngăn đe thực tế” vào Việt Nam, Mỹ đã thi hành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” với

ý định xuống thang chiến tranh, rút dần quân Mỹ về nước nhưng kéo dài và

mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương Thực chất của chính sách này

là dùng người Việt đánh người Việt, dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương bằng tiền của và sự chỉ huy của Mỹ để tránh thiệt hại về người cho quân đội Mỹ nhằm xoa dịu làn sóng phản đối chiến tranh đang lên cao

Trang 26

trong nước Thực hiện chiến lược này, Mỹ đã chuyển giao trách nhiệm quân

sự cho nguỵ quyền Sài Gòn, ra sức củng cố nguỵ quân, nguỵ quyền, tăng tổng số quân đội Sài Gòn từ hơn 55 vạn tên lên 104 vạn tên với hàng loạt vũ khí và trang thiết bị mới[24, tr40]

Âm mưu của Mỹ rất nham hiểm và thâm độc, chúng vừa xuống thang chiến tranh, vừa phản công và tiến công ta quyết liệt bằng phương tiện chiến tranh hiện đại kể cả vũ khí hoá học, chiến tranh điện tử và không quân chiến lược hòng bao vây, cô lập nhân dân miền Nam, làm cho chiến tranh cách mạng mất chỗ dựa đi đến tiêu diệt quân chủ lực của ta tạo thế mạnh cho Mỹ - nguỵ giành thắng lợi về quân sự và chính trị Đế quốc Mỹ đã thể hiện quyết tâm đánh phá nước ta bằng mọi cách và dù đã bi thất bại nhiều lần nhưng chúng vẫn ngoan cố, tìm mọi cách để cứu vãn chiến lược toàn cầu phản cách mạng mà chúng đã đề ra

Như vậy, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, trải qua năm đời tổng thống với chiến lược toàn cầu phản cách mạng, Mỹ đã chĩa mũi nhọn vào đàn

áp phong trào cách mạng thế giới Mỹ thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam với âm mưu cơ bản là “tiêu diệt bằng được phong trao yêu nước của nhân dân ta, thôn tính miền nam, chia cắt lâu dài nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam á; đồng thời lấy miền Nam làm căn cứ để tấn công miền Bắc, tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới

ở Đông Nam châu á, hòng đề bẹp và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng này, bao vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa khác”[42, tr.478-479] Mỹ tự coi mình là có vai trò chủ chốt, đứng đầu các nước tư bản đảm bảo hoà bình cho

“thế giới tự do”, chống lại chủ nghĩa cộng sản và coi việc đàn áp, phá hoại phong trào độc lập dân tộc là một mục tiêu quan trọng của chiến lược toàn cầu Mỹ đã thi thố mọi chiến lược, chiến thuật chính trị, quân sự, ngoại giao,

Trang 27

đã sử dụng những thủ đoạn chiến tranh tàn bạo nhất để tàn phá con người và đất nước Việt Nam, vì “Mỹ muốn chứng tỏ rằng lực lượng quân sự và kinh tế không lồ của chúng có thể đè bẹp mọi phong trào giai phóng dân tộc và chăn đứng bước tiến của chủ nghĩa xã hội ở bất cứ nơi nào trên thế giới”[42,tr.479]

Với sức mạnh và những âm mưu thâm độc của mình qua việc thực hiện những chính sách về kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao thì đế quốc Mỹ

là kẻ thù mạnh nhất, ngoan cố và khó đối phó nhất mọi thời đại của dân tộc ta

Mỹ tuy mạnh nhưng không có nghĩa là chúng ta không thể đánh thắng được Mỹ mà cốt yếu phải thấy được rằng muốn đối phó với một kẻ thù lớn mạnh, nham hiểm như vậy, chúng ta phải có đường lối và phương pháp cách mạng phù hợp Trên cơ sở phân tích và so sánh tương quan lực lượng giữa ta

và địch, nhận thấy đế quốc Mỹ là một kẻ thù nguy hiểm không giống như những kẻ thù trước đó, chúng ta không thể ngay một lúc đánh đổ cả Mỹ và chính quyền tay sai được mà chỉ có thể giành thắng lợi khi đè bẹp được ý chí xâm lược của Mỹ, buộc chúng phải rút quân khỏi miền Nam, tạo tiền đề để đánh đổ nguỵ quân, nguỵ quyền, Đảng đã đề ra chủ trương giành thắng lợi quyết định trước khi tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn trong điều kiện một nước Việt Nam nhỏ bé, nghèo nàn phải đương đầu với một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới Và minh chứng cho sự đúng đắn này là việc Mỹ phải ký hiệp định Pari, rút quân khỏi nước ta, tạo cơ sở vững chắc để cuộc cách mạng của ta đi đến thắng lợi cuối cùng

1.1.2 Tác động của phong trào cộng sản, dân chủ hoà bình và

phong trào giải phóng dân tộc đối với cách mạng Việt Nam

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới do Liên Xô đứng

Trang 28

đầu, là chỗ dựa cho phong trào độc lập dân tộc Hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển mạnh mẽ từ châu Âu sang châu á và trở thành một lực lượng chính trị, kinh tế hùng mạnh, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa

tư bản ngày càng sâu sắc Điều đó thể hiện qua cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trên khắp các lục địa ở tất cả mọi lĩnh vực Các nước tư bản chủ nghĩa mà đứng đầu là Mỹ muốn tìm mọi cách ngăn chặn và xoá bỏ hệ thống chủ nghĩa

xã hội để thể hiện vai trò độc tôn của chủ nghĩa tư bản Nhưng những âm mưu

và thủ đoạn của Mỹ đã không những không tiêu diệt được hệ thống xã hội chủ nghĩa mà còn làm cho các nước này phát triển mạnh mẽ hơn Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô, Trung Quốc, Đông Đức và các nước Đông Âu bắt tay vào công cuộc kiến thiết đất nước và đã thu được những thành tựu to lớn, kinh tế xã hội được phục hồi và phát triển đáng kể trở thành đối thủ cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản Tính đến năm 1961, tốc độ phát triển sản xuất của

12 nước xã hội chủ nghĩa “tăng trung bình từ 8% đến 11% so với năm trước; đặc biệt tốc độ phát triển sản xuất công nghiệp của phe xã hội chủ nghĩa đã nhanh gấp 4 lần so với phe đế quốc chủ nghĩa Kết quả là toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa đã sản xuất gần 40% tổng sản lượng công nghiệp toàn thế giới (năm 1955 tỷ trọng đó mới là 27%) Sản lượng nông nghiệp của các nước xã hội chủ nghĩa đã chiếm hơn một nửa tổng sản lượng nông nghiệp toàn thế giới”[29,tr.182] Sự lớn mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa đã làm cho so sánh lực lượng trên thế giới thay đổi theo chiều có lợi cho chủ nghĩa xã hội, cho lực lượng cách mạng Cách mạng thế giới đang ơ thế tiến công còn chủ nghĩa đế quốc đang ơ thế suy yếu

Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, tuy chủ nghĩa đế quốc suy yếu nhưng chừng nào nó còn tồn tại thì vẫn còn miếng đất để xảy ra chiến tranh Đế quốc

Mỹ là lực lượng gây chiến chủ yếu trên thế giới, chúng dẫn đầu các thế lực

Trang 29

hiếu chiến chạy đua vũ trang, củng cố các khối liên minh quân sự, xây dựng các căn cứ quân sự, nhóm lên những lò lửa chiến tranh ở châu Âu, châu á Nguy cơ chiến tranh thế giới vẫn có thể nổ ra, đặc biệt là đặt nhân dân thế giới trước sự đe doạ hết sức nghiêm trọng của một cuộc chiến tranh hạt nhân Điêu

đó làm cho nhiêu người lo ngại, hoài nghi, tạo điều kiện cho chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc bùng phát làm cho tình hình thế giới phức tạp

Vì vậy, khi tiến hành cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, một yêu cầu đối với Đảng và nhà nước ta là phải hết sức sáng suốt trong nhận định tình hình và có sách lược đúng đắn giải quyết mối quan hệ giữa hoà bình và cách mạng Trên thực tế, Đảng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ đó góp phần bảo vệ hoà bình, thống nhất đất nước và thúc đẩy cách mạng thế giới phát triển

Thắng lợi của hệ thống xã hội chủ nghĩa, đã tác động to lớn tới quá trình phát triển thế giới, đồng thời cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa Cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã nhận được

sự ủng hộ nhiệt tình và chi viện to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em (xem phụ lục 3), đó là một động lực quý báu để chúng ta có thể chiến thắng được kẻ thù xâm lược Nếu miền Bắc là hậu phương trực tiếp cho cách mạng miền Nam thì hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới là hậu phương rộng lớn đáng tin cậy, một thuận lợi chưa từng có đối với cách mạng nước ta

Một đặc điểm nữa trong bối cảnh quốc tế mà cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nước của Việt Nam chịu sự tác động và chi phối là sự phát triển dồn dập của phong trào giải phóng dân tộc ở vùng á, Phi và Mỹ La Tinh Phong trào này đã “phát triển với khí thế mạnh mẽ, quy mô rộng lớn, chất lượng ngày càng cao, và thu nhiều thắng lợi quan trọng”[29, tr.184-185] Vùng á, Phi và Mỹ La Tinh được các nước đế quốc mà đứng đầu là Mỹ đặc biệt quan

Trang 30

tâm, nó được xem là sân sau của chúng, nhưng phong trào giải phóng dân tộc diễn ra liên tiếp tại đây đã khiến chúng phải lo sợ và tìm mọi cách đàn áp phong trào Nhưng có áp bức thì có đấu tranh Chính vì vậy, sự đàn áp của các nước đế quốc càng tạo điều kiện cho phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết Vào những năm 50 và 60, hàng loạt các nước thuộc địa ở châu á, châu Phi và Mỹ La Tinh đã giành được độc lập dân tộc và

đã trở thành đồng minh hùng hậu của hệ thống xã hội chủ nghĩa, của phong trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa Thực tế cho thấy rằng “vùng

á, Phi, Mỹ La Tinh là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc, là nơi dễ bị chọc thủng nhất trong trận tuyến của chủ nghĩa đế quốc”[80, tr.29] Kết quả của phong trào là nhiều nước đã giành đuợc độc lập dân tộc Sau khi giành độc lập, các nước này đã đi theo con đường hoà bình, trung lập, không tham gia các liên minh quân sự, chính trị đa phương hoặc song phương với các nước phuơng Tây để giữ gìn nền độc lập của mình Sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc ở đây đã gây cản trở cho việc thi hành chính sách bành trướng của đế quốc Mỹ và các nước TBCN Sức công phá của nó vô cùng to lớn, những biến đổi sâu sắc ở đây đã và đang gây ra sự đảo lộn lớn trên thế giới, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng XHCN phát triển Sự lớn mạnh của phong trào giải phóng dân tộc ở á, Phi, Mỹ La Tinh đã trở thành nguồn lực cổ vũ, động viên cho phong trào đấu tranh chống Mỹ, cứu nước ở Việt Nam

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta còn diễn tra trong điều kiện phong trào dân chủ, hoà bình trong các nước TBCN phát triển ngày một mạnh mẽ hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu Phong trào này diễn ra với nội dung phong phú và hình thức linh hoạt Bãi công, biểu tình của hàng triệu người đã nổ ra trở thành những đợt sóng đấu tranh rộng lớn trong phạm

vi từng nước và trên toàn thế giới Cuộc đấu tranh này đang được đẩy cao và

Trang 31

lôi kéo được sự tham gia nhiệt tình của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước TBCN nhằm chĩa mũi nhọn vào giai cấp thống trị Phong trào đấu tranh cho hoà bình, dân chủ phát triển tương đối rộng khắp, liên tục với khí thế mạnh mẽ và giành được những thắng lợi đáng kể Trong đó, ủng

hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược và ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các lục địa là một cuộc đấu tranh rộng lớn nhất Sự thành công của phong trào dân chủ, hoà bình sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi để phong trào giải phóng dân tộc ở các nước bị xâm lược (như Việt Nam) giành được thắng lợi Chính vì vậy, sự phát triển của phong trào đấu tranh này ở các nước TBCN đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước đang bị CNTB chiếm đóng Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam cũng chịu sự tác động to lớn của phong trào dân chủ hoà bình, đó là một trong những điều kiện quan trọng để cuộc cách mạng của chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng

Việt Nam là nơi tập trung nhiều mâu thuẫn cơ bản Đây cũng là nơi tập trung ba dòng thác cách mạng lớn của thời đại: độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội

Sức mạnh tổng hợp của ba dòng thác cách mạng cộng với sức mạnh của phong trào hoà bình đã tạo nên một sự thay đổi lớn trong tương quan so sánh lực lượng Với sức mạnh tổng hợp của ba dòng thác cách mạng này, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã nhận được sự giúp

đỡ, cổ vũ động viên lớn lao và vì thế có điều kiện để chiến thắng một kẻ thù hung ác nhất của loài người

Tuy nhiên, trong những thời điểm nhất định, tình hình quốc tế có những yếu tố tác động bất lợi đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta Từ năm 1960 trở đi, phe XHCN có những bất đồng về quan điểm, nhất là bất đồng Xô - Trung Quan hệ giữa Liên Xô - Trung Quốc xấu

Trang 32

đi một cách nghiêm trọng, lúc đầu là những căng thẳng về đường lối, quan điểm sau chuyển thành những căng thẳng trong vấn đề biên giới, thậm chí dẫn đến xung đột vũ trang Mỹ nhanh chóng lợi dụng mâu thuẫn này để phản kích lại phong trào cách mạng thế giới và tìm cách giảm thiểu sự ủng hộ và chị viện của các nước trong phe XHCN (như Liên Xô, Trung Quốc) choViệt Nam Trong cuộc chiến tranh Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam, cả Liên Xô và Trung Quốc đều có những cái lợi nhất định ở những mức độ khác nhau Liên

Xô lợi dụng cơ hội Mỹ sa lầy ở Việt Nam, tranh thủ thời gian thúc đẩy hoà dịu Xô-Mỹ, để kiềm chế Mỹ, giảm gánh nặng chạy đua vũ trang, tăng cường phát triển kinh tế Liên Xô lo ngại chiến tranh ở Việt Nam mở rộng sẽ làm cho quan hệ quốc tế căng thẳng, có hại cho tiến trình hoà dịu Xô-Mỹ và có lợi cho Trung Quốc trong việc cải thiện quan hệ với Mỹ Vì vậy, mặc dù vẫn ủng

hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam nhưng Liên Xô lại muốn nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh ở đây thông qua thương lượng hoà bình Còn đối với Trung Quốc, việc ủng hộ và chi viện cho Việt Nam được coi là một “nhiệm vụ không thể thoái thác” nhưng Trung Quốc lại lo sợ chiến tranh kéo dài sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình hoà dịu Trung - Mỹ Mặt khác, Trung Quốc lại muốn lợi dụng việc kéo dài chiến tranh ở Việt Nam để kiềm chế Mỹ, tập hợp lực lượng thế giới phục vụ cho chiến lược phát triển của mình

Một số nước ở Đông Nam á đã tranh thủ việc Mỹ bị sa lầy ở Việt Nam

để ổn định đất nước, phát triển kinh tế, thu lợi qua việc thực hiện chiến tranh của Mỹ

Như vậy, cuộc chiến tranh của Mỹ tiến hành ở Việt Nam có những lợi ích nhất định đối với các nước và những chiến lược phát triển quốc gia của họ đều nhằm thúc đẩy quan hệ quốc tế có lợi cho mình

Trang 33

Rõ ràng, những mâu thuẫn, bất đồng và những lợi ích của các nước đã tác đông không nhỏ đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam Cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc vừa phải đương đầu với một tên đế quốc đầu sỏ hùng mạnh nhất thế giới đồng thời lại vừa phải khéo léo điều chỉnh quan hệ với hai nước lớn là Trung Quốc

và Liên Xô nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng bất lợi do mâu thuẫn giữa hai nước gây ra

Mặc dù, tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, đôi lúc có những mâu thuẫn, bất đồng, phong trào cách mạng thế giới có những lúc suy thoái tam thời nhưng nhìn chung là có lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân

ta

1.2 Điều kiện chủ quan của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

1.2.1 Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta diễn

ra trong hoàn cảnh khó khăn

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong điều kiện hết sức khó khăn Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta giành đuợc thắng lợi, hiệp định Giơnevơ được ký kết, theo hiệp định này, quân Pháp phải rút hết quân về nước, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai, lấy vĩ tuyễn 17 làm ranh giới và hai năm sau sẽ tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất đất nước Nhưng đế quốc Mỹ đã tìm mọi cách phá hoại hiệp định Giơnevơ thế chân Pháp xâm lược nước ta bằng chính sách thực dân mới nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng thông qua chế độ cai trị độc tài tay sai Ngô Đình Diệm

Sau khi giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chúng ta đã phải chịu những tổn thất nặng nề về người và của, trong lúc đang tập trung mọi lực lượng nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh thì lại phải

Trang 34

đương đầu với một kẻ thù còn nguy hiểm hơn gấp bội phần, đẩy cách mạng nước ta vào tình thế khó khăn hơn bao giơ hết

Từ sau Hiệp định Giơnevơ, dưới sức ép về kinh tế và quân sự, Pháp đã phải từng bước rút lui khỏi miền Nam nhương chỗ cho Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam nhằm chia cắt lâu dài Việt Nam Mỹ đã nhanh chóng xây dựng được một đội quân nguỵ dưới quyền kiểm soát của mình gồm

10 sư đoàn bộ binh và hàng chục trung đoàn độc lập, với một bộ tổng tham mưu hoàn toàn do Mỹ đào tạo Hệ thống cố vấn Mỹ được cài cắm ở khắp nơi

từ Phủ Tổng thống, Bộ Tham mưu, Nha cảnh sát, các Bộ của chính quyền Sài Gòn cho đến các địa phương

Hội nghị Trung ương lần thứ 15 đã nhận định: “Với một hệ thống “cố vấn” chặt chẽ, dựa vào quyền lực của vũ khí, đô la và hàng viện trợ, đế quốc

Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào miền Nam; chúng quyết định từ đường lối, chính sách cho đến công việc cụ thể của chính quyền miền Nam trên các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao”[77, 105]

Trong thời gian 1954 - 1956, Mỹ đã cùng với chính quyền Ngô Đình Diệm dồn sức tiêu diệt các thế lực vũ trang giáo phái thân Pháp ở Nam bộ, đó

là Hoà Hảo, Cao Đài và Bình Xuyên Chúng đã phải sử dụng bạo lực để tiêu diệt các lực lượng chống đối này Ngày 1-1-1955, Mỹ - Diệm đã cắt các khoản phụ cấp trước đây Pháp dành cho các giáo phái này và ra lệnh đóng cửa sòng bạc kim Chung và Đại thế giới (Đây là nguồn thu lợi lớn của Bình Xuyên); mua chuộc và dụ hàng các tướng lĩnh của Cao Đài, Hoà Hảo; tổ chức các chiến dịch thanh trừng lực lượng vũ trang thân Pháp, chiến sự xảy ra khắp nơi ở Nam Bộ với quy mô của một cuộc chiến tranh

Ngay từ giữa tháng 7 năm 1954, Hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng đã đề ra phương châm hoạt động của cách mạng miền Nam là: Phải kết hợp chặt chẽ hình thức đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp, nhưng phải

Trang 35

lấy hoạt động bí mật, bất hợp pháp là chính đồng thời hết sức lợi dụng mọi khả năng hợp pháp để tuyên truyền, tổ chức, giáo dục quần chúng Phải luôn bám sát quần chúng mà hoạt động, chống sự khủng bố của địch, che dấu, giữ gìn lực lượng cách mạng

Lợi dụng mâu thuẫn giữa Mỹ và Pháp, một số đồng chí đã ở lại miền Nam hoạt động trong lực lượng vũ trang giáo phái chống Diệm nhằm tạo vỏ bọc hợp pháp để hoạt động cách mạng, tư đó gây dựng cơ sở cách mạng ở các địa phương Sau khi lực lượng vũ trang giáo phái tan rã, một số nơi ở Nam Bộ

đã xây dựng được các đội vũ trang cách mạng và có những hình thức hoạt động vũ trang thích hợp trong từng giai đoạn nhất định để củng cố và xây dựng cơ sở cách mạng vững chắc làm hạt nhân cho cuộc đấu tranh chống Mỹ, Diệm sau này

Tháng 9 năm 1954, Hội nghị Bộ Chính trị đã phân tích sâu sắc tình hình nước ta trong thời kỳ này và khẳng định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: phải đấu tranh đòi đối phương thi hành đầy đủ Hiệp định Giơnevơ, củng cố hoà bình, thực hiện tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, không được khủng bố, đàn áp nhân dân và trả thù những người kháng chiến

cũ, không được cướp giật lại ruộng đất cũng như các quyền lợi dân sinh, dân chủ mà cách mạng đã mang lại cho nhân dân

Thi hành nhiệm vụ nói trên, cách mạng miền Nam phải lấy hình thức đấu tranh chính trị là chủ yếu Lúc này phải biết nắm lấy cơ sở pháp lý của hiệp định Giơnevơ mà lãnh đạo quần chúng đấu tranh hợp pháp với địch, tiến công chúng về mặt chính trị, tinh thần, kết hợp với đấu tranh vũ trang tự vệ

Trong hai năm 1955 - 1956, Đảng bộ miền Nam đã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đấu tranh chính trị mạnh mẽ, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, giữ vững hoà bình, chống âm mưu, hành động chuẩn bị gây chiến tranh của địch, đòi thực hiện dân chủ, cải thiện dân sinh

Trang 36

Tuy nhiên, sau khi thẳng tay gạt Pháp ra khỏi guồng máy cai trị và độc chiếm miền Nam, phá tan lực lượng vũ trang của các giáo phái, gạt bỏ mọi thế lực thân Pháp cùng với việc xây dựng quân đội nguỵ, Mỹ hướng ngay mũi nhọn đàn áp của mình về phía phong trào yêu nước cách mạng Chúng tổ chức mạng lưới kìm kẹp đến tận ấp, xã, phường, bắt cán bộ ta ra trình diện, phân loại nhân dân, làm tơ khai gia đình, tổ chức các đảng phái phản động

Từ cuối năm 1954, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã huy động bộ máy quân đội, cảnh sát gây ra những vụ thảm sát đẫm máu ở Ngân Sơn, Chợ Được, Mỏ Cày, Củ Chi, Chí Thạnh, Cam Lộ, Hướng Điền Chúng thi hành quốc sách “tố cộng, diệt cộng” để đàn áp phong trào yếu nước, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, lùng bắt và giết hại những người kháng chiến cũ và đồng bào yêu nước Chúng thi hành chiến lược này với phương trâm “giết nhầm còn hơn bỏ sót” với mục tiêu tiêu diệt hết những người cộng sản, những

tổ chức cộng sản ở đây Chúng dùng quân đội mở nhiều cuộc hành quân càn quét trên quy mô lớn, dài ngày như “chiến dịch Thoại Ngọc Hầu” diễn ra ở 18 tỉnh miền Tây Nam Bộ , “chiến dịch Trương Tấn Bửu” ở 8 tỉnh Đông Nam

Bộ Mỹ, Diệm đã ban hành luật 10/59 lê máy chém đi khắp miền Nam bắt bớ, tra tấn, chém giết những người yêu nước, biến miền Nam thành nơi tràn ngập nhà tù, trại giam

Trước hành động khủng bố trắng của Mỹ-Diệm, lực lượng cách mạng miền Nam bi tổn thất lớn: 9/10 số cán bộ đảng viên bị giết và tù đày ở Nam

Bộ, khoảng 7 vạn cán bộ, đảng viên bị giết, gần 90 vạn cán bộ và quần chúng

bị bắt, tù đày; gần 20 vạn bị tra tấn đến tàn tật, chỉ còn khoảng 5 nghìn so với

60 nghìn đảng viên trước đó Bến Tre từ 2000 đảng viên chỉ còn 162 đảng viên; Tiền Giang còn 92 đảng viên; Gia Định, Biên Hoà mỗi nơi chỉ còn 1 chi

bộ Đảng ở khu V (lúc này gồm cả Trị - Thiên) và Nam Trung bộ còn khoảng 40% tỉnh uỷ viên, 60% huyện uỷ viên; 70% chi uỷ viên xã bị bắt, bị giết, 20

Trang 37

tỉnh chỉ còn 2-3 chi bộ, 12 huyện đồng bằng không còn cơ sở Đảng Riêng Trị

- Thiên còn 160 đảng viên so với 23.400 đảng viên trước đó [66, tr.145] Đây

là tổn thất về lực lượng vô cùng to lớn của cách mạng miền Nam không có gì

có thể so sánh được và là thời kỳ đen tối nhất mà cách mạng miền Nam phải trải qua

Một điểm dễ nhận thấy nhất trong cuộc đụng đầu lịch sử này là sự chênh lệch quá lớn về tương quan lực lượng giữa hai bên Chúng ta tiến hành cuộc kháng chiến trong tình trạng hết sức khó khăn, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng kinh tế nghèo nàn lạc hậu, hàng vạn thôn xóm tiêu điều, xơ xác; hàng chục hécta ruộng đất hoang hoá; đời sống nhân dân thiếu thốn mọi

bề Miền Nam tạm thời do đối phương kiểm soát, cách mạng tư chỗ có chính quyền, có quân đội, có vùng giải phóng trở thành không chính quyền, không quân đội, không vùng giải phóng; lực lượng cách mạng tại chỗ bị thiệt hại năng nề do chính sách cai trị độc tài của chính quyền Ngô Đình Diệm gây ra Trong khi đó kẻ thù mà chúng ta phải đương đầu là một đế quốc hùng mạnh, giàu có, nham hiểm nhất thế giới, có bộ máy quân sự mạnh, có đội quân viễn chinh đông và chưa tùng bị bại trận

Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta rơi vào tình thế vô cùng khó khăn, đất nước có nguy cơ “trở về thời kỳ đồ đá” như Mỹ hăm doạ Đặc biệt khi Mỹ ồ ạt đưa quân vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, trong nước và trên thế giới cũng có nhiều ý kiến khác nhau, họ cho rằng nhân dân Việt Nam

sẽ không thể chiến thắng đế quốc Mỹ, thậm chí có thế tạo ra nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới mới vì thế họ không muốn ta đánh và không muốn

bị lôi kéo vào lò lửa chiến tranh nay Sự nghiệp cách mạng Việt Nam đứng trước một câu hỏi lớn: liệu với sức mạnh như hiên có chúng ta có thể đánh thắng đế quốc Mỹ và tay sai không và nêu đánh thì sẽ phải đánh như thế nào? Với bản lĩnh cách mạng và sự am hiểu sâu sắc tình hình, thấy rõ chỗ mạnh

Trang 38

tạm thời và chỗ yếu cơ bản của địch, thấy rõ sức mạnh tổng hợp của nhân dân

ta trong thời đại mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Trung ương hạ quyết tâm động viên cả nước kiên quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do”[54, tr.108] Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:

“Ta nhất định thắng

Mỹ nhất định thua”[54, tr.36]

Tuy nhiên, không phải chỉ có quyết tâm cao là có thể đánh thắng giặc

Mỹ xâm lược, mà quan trọng là phải biết đánh “Biết đánh là cả một quá trình sáng tạo, sáng tạo của lãnh đạo và sáng tạo của quần chúng trên cơ sở nắm vững quy luật cách mạng, quy luật chiến tranh cách mạng, quan điểm thực tiễn, biết địch biết ta, đánh giá đúng chỗ mạnh của địch để khắc phục, phát hiện đúng chỗ yếu của địch để khoét sâu, biết tập trung giáng đòn quyết định làm chuyển biến cục diện chiến tranh, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn”[7, tr.68]

Với quyết tâm đánh Mỹ và những kinh nghiệm được tích luỹ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh đánh thắng kẻ thù xâm lược lập nên một kỳ tích chưa từng có trong lịch sử nhân loại, góp phần quan trọng làm tăng cường sức mạnh của lực lượng cách mạng thế giới Để làm nên chiến thắng đó phải nói đến sự lãnh đạo tài tình của Đảng, sự nhạy bén trong việc nhận định tình hình, bám sát với thực tiễn, đề ra đường lối và phương pháp cách mạng thích hợp mà một trong những thành công đó là việc tổ chức chỉ đạo giành thắng lợi quyết định trong tình thế tương quan lực lượng có sự chênh lệch khá lớn

Trang 39

1.2.2 Đất nước bị chia cắt thành hai miền, phải tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng

Đây là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Trong suốt cuộc kháng chiến, việc hoạch định đường lối chiến lược và sách lược của Đảng luôn phản ánh rõ đặc điểm lớn này Từ mục tiêu chung của cách mạng cả nước và mục tiêu cụ thể của từng miền đến những vấn đề

về chủ trương, sách lược và phương pháp tiến hành đều phải phù hợp với đặc điểm trên, phù hợp với điều kiện lịch sử của từng miền Đồng thời, Đảng phải xác định rõ vị trí cách mạng từng miền và mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng hai miền trong thế chiến lược chung của cả nước

Ngay từ cuối năm 1956, Đề cương về đường lối cách mạng miền Nam,

đã khẳng định nhiệm vụ chiến lược của cả nước là:

1 Củng cố thật vững chắc miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành cơ sở vững mạnh của cả nước, làm hậu thuẫn cho phong trào giải phóng miền Nam

2 Đẩy mạnh phong trào cách mạng miền Nam Để cứu nước và tự cứu mình, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng Bởi vậy phải đẩy mạnh phong trào cách mạng ở miền Nam

Như vậy, ngay từ sớm Đảng đã thấy được vị trí, vai trò của cả hai miền trong sự nghiệp cách mạng nước nhà và có đường lối chỉ đạo cách mạng đúng đắn nhằm phát huy được mọi nguồn lực phục vụ cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc

Đường lối này được cụ thể hóa và thấy rõ hơn trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9 - 1960)

Sau khi tổng kết tình hình thực tiễn hai miền Nam, Bắc, Đại hội đã xác định đường lối cách mạng của nước ta:

Trang 40

“Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược:

- Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc

- Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước

Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy nhau”[27, tr.510]

Đại hội đã xác định đúng đắn vị trí chiến lược của từng miền:

Miền Bắc được coi là căn cứ địa chung của cách mạng cả nước và việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước Đảng khẳng định: “Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hôi, làm cho miền Bắc được ngày càng vững mạnh về mọi mặt thì càng có lợi cho cách mạng giải phóng miền Nam, cho sự phát triển của cách mạng trong cả nước, cho việc giữ gìn và củng cố hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam á và thế giới Vì vậy, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà”[26,tr.520] Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi nhân dân miền Nam phải tập hợp mọi lực lượng ra sức đấu tranh đánh đuổi giặc Mỹ xâm lược nên phương châm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: “Xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam”[27, tr.510]

Cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III nêu rõ: “Trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, đồng bào ta ở miền Nam có

Ngày đăng: 29/12/2015, 23:07

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Gi. Amtơ (1995), Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lời phán quyết về Việt Nam
Tác giả: Gi. Amtơ
Nhà XB: Nxb Quân đội nhân dân
Năm: 1995
2. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi và bài học
Tác giả: Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 1995
3. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975- Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975- Thắng lợi và bài học
Tác giả: Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2000
4. Nguyễn Văn Bạo (2007), “Xác định mục tiêu chiến lược và mục tiêu chủ yếu trước mắt trong chỉ đạo kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr45-46 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xác định mục tiêu chiến lược và mục tiêu chủ yếu trước mắt trong chỉ đạo kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, "Tạp chí Lịch sử Đảng
Tác giả: Nguyễn Văn Bạo
Năm: 2007
5. Nguyễn Bình (2005), “Vai trò của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (12), tr11-14 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vai trò của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Tác giả: Nguyễn Bình
Năm: 2005
7. Bộ Quốc Phòng - Ban Tư tưởng văn hoá trung ương - Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh (2006), Đại thắng mùa xuân 1975 - Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại thắng mùa xuân 1975 - Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam
Tác giả: Bộ Quốc Phòng - Ban Tư tưởng văn hoá trung ương - Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nxb Quân đội nhân dân
Năm: 2006
8. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1991), Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam
Tác giả: Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
Năm: 1991
9. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam, tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam
Tác giả: Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
Nhà XB: Nxb Quân đội nhân dân
Năm: 1994
10. Mai Văn Bộ (1985), Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật
Tác giả: Mai Văn Bộ
Nhà XB: Nxb Thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 1985
11. Nguyễn Đình Bin (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000
Tác giả: Nguyễn Đình Bin
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2002
12. Nguyễn Bình (2005), “Vai trò của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (12), tr11-14 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vai trò của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, "Tạp chí Lịch sử Đảng
Tác giả: Nguyễn Bình
Năm: 2005
13. Hoàng Cầm (1978), “Chiến dịch tiến công Nguyễn Huệ năm 1972”, Tạp chí Quân đội nhân dân, (8), tr5-13 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chiến dịch tiến công Nguyễn Huệ năm 1972”, "Tạp chí Quân đội nhân dân
Tác giả: Hoàng Cầm
Năm: 1978
14. Chiến thắng Điện Biên Phủ sức mạnh dân tộc và tầm vóc lịch sử (1994), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nôi Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chiến thắng Điện Biên Phủ sức mạnh dân tộc và tầm vóc lịch sử
Tác giả: Chiến thắng Điện Biên Phủ sức mạnh dân tộc và tầm vóc lịch sử
Nhà XB: Nxb Quân đội nhân dân
Năm: 1994
15. Trường Chinh (1976), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”
Tác giả: Trường Chinh
Nhà XB: Nxb Sự thật
Năm: 1976
16. G.Côncô (1989), Giải phẫu một cuộc chiến tranh, tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải phẫu một cuộc chiến tranh
Tác giả: G.Côncô
Nhà XB: Nxb Quân đội nhân dân
Năm: 1989
17. G.Côncô (1991), Giải phẫu một cuộc chiến tranh, tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải phẫu một cuộc chiến tranh
Tác giả: G.Côncô
Nhà XB: Nxb Quân đội nhân dân
Năm: 1991
18. Lê Duẩn (1972), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới
Tác giả: Lê Duẩn
Nhà XB: Nxb Sự thật
Năm: 1972
19. Lê Duẩn (1985), Thư vào Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thư vào Nam
Tác giả: Lê Duẩn
Nhà XB: Nxb Quân đội nhân dân
Năm: 1985
20. Lê Duẩn (1981), Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của chúng ta, Nxb Sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của chúng ta
Tác giả: Lê Duẩn
Nhà XB: Nxb Sự thật
Năm: 1981
21. Văn Tiến Dũng (1989), Bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Nxb Sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ
Tác giả: Văn Tiến Dũng
Nhà XB: Nxb Sự thật
Năm: 1989

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

7  Sơ đồ diễn biến trận ấp Bắc  181 - Tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện,giành thắng lợi quyết định của đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống mỹ, cứu nước
7 Sơ đồ diễn biến trận ấp Bắc 181 (Trang 185)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w