CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Cơ sở lý luận
Nuôi con bằng sữa mẹ mang lại nhiều lợi ích rõ rệt cho cả bà mẹ và sơ sinh Việc cho bú sớm ngay sau khi sinh và hướng dẫn bà mẹ cách cho bú đúng cách không chỉ giúp duy trì nguồn sữa mà còn đảm bảo dinh dưỡng tối ưu cho trẻ.
Tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ nên bắt đầu từ những tháng cuối thai kỳ, nhưng thời điểm lý tưởng nhất là ngay sau khi sản phụ sinh con, khi nhu cầu thông tin và hỗ trợ về việc nuôi con bằng sữa mẹ trở nên cấp thiết Để cung cấp tư vấn hiệu quả, người tư vấn cần trang bị không chỉ kỹ năng giao tiếp mà còn những kiến thức chuyên sâu liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ.
Một số khái niệm về nuôi con bằng sữa mẹ
- Nuôi con bằng sữa mẹ là đứa trẻ được bú mẹ trực tiếp hoặc sữa mẹ vắt ra
Nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ nghĩa là trẻ chỉ nhận sữa từ mẹ, không tiêu thụ bất kỳ loại thực phẩm lỏng hay rắn nào khác, ngoại trừ các giọt, siro chứa vitamin, khoáng chất bổ sung hoặc thuốc.
Sữa non là loại sữa được tiết ra trong 1-3 ngày đầu sau khi sinh, có màu vàng nhạt, trong, sánh và đặc Nó đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ trẻ sơ sinh khỏi hầu hết các vi khuẩn và siêu vi khuẩn Ngoài ra, sữa non còn có tác dụng sổ nhẹ, giúp trẻ đào thải phân su, từ đó giảm nguy cơ bị vàng da Dù chỉ được tiết ra với một lượng nhỏ, sữa non vẫn đủ cung cấp cho nhu cầu dinh dưỡng của một đứa trẻ bình thường.
1.1.1.1 Sinh lý của sự bài tiết sữa mẹ
* Phản xạ tạo sữa mẹ
Phản xạ tiết sữa, hay còn gọi là phản xạ Prolactin, xảy ra khi trẻ mút vú, kích thích cơ thể mẹ tiết hormone Prolactin Hormone này sau đó đi vào máu và đến vú, thúc đẩy quá trình sản xuất sữa Do đó, nếu trẻ bú nhiều, vú mẹ sẽ sản xuất nhiều sữa hơn.
Phản xạ phun sữa, hay còn gọi là phản xạ Oxytoxin, được kích thích khi trẻ mút vú, dẫn đến việc bài tiết oxytoxin Oxytoxin giúp các tế bào cơ xung quanh nang sữa co lại, từ đó đẩy sữa ra ngoài Tâm trạng của mẹ cũng ảnh hưởng đến phản xạ này; khi mẹ cảm thấy hài lòng, gần gũi và yêu thương con, phản xạ Oxytoxin sẽ được kích thích mạnh mẽ hơn Ngược lại, trong sữa mẹ có chất ức chế tạo sữa, làm ngừng quá trình sản xuất sữa khi có lượng sữa lớn đọng lại Do đó, để duy trì sản xuất sữa, mẹ cần cho trẻ bú thường xuyên hoặc vắt sữa để giữ cho vú luôn rỗng.
Sữa non là loại sữa mẹ đặc biệt được tiết ra trong ba ngày đầu sau khi sinh, có kết cấu sánh đặc và màu vàng nhạt hoặc trong Loại sữa này chứa nhiều đạm hơn so với sữa trưởng thành, mang lại nhiều lợi ích cho sự phát triển của trẻ.
Việc cho trẻ bú sữa non trong những giờ đầu sau sinh là vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong vòng 1 giờ đầu Sữa non đã có sẵn trong vú ngay khi trẻ ra đời, và không nên cho trẻ bất kỳ thức ăn hay nước uống nào trước khi trẻ bắt đầu bú mẹ.
Sau khoảng 3-4 ngày, sữa non sẽ chuyển sang sữa trưởng thành, dẫn đến việc sản lượng sữa tăng lên Điều này khiến cho hai bầu vú của mẹ trở nên đầy và căng cứng, hiện tượng này được gọi là "xuống sữa".
Sữa đầu bữa là loại sữa được tiết ra trong giai đoạn đầu của buổi bú, có màu trắng trong và thường có số lượng nhiều Loại sữa này cung cấp một lượng lớn đạm, đường, nước cùng với các chất dinh dưỡng thiết yếu khác cho trẻ.
Sữa cuối bữa bú của trẻ là loại sữa được tiết ra khi bầu vú mẹ đã hết căng Loại sữa này có màu trắng đục do chứa nhiều chất béo hơn so với sữa đầu bữa, và chất béo này cung cấp năng lượng dồi dào, giúp trẻ phát triển nhanh chóng.
1.1.1.3 Đáp ứng nhu cầu năng lượng từ sữa mẹ
- Trong 6 tháng đầu sau đẻ, bú mẹ hoàn toàn đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng và nước cho trẻ
- Từ 6-12 tháng tuổi sữa mẹ cung cấp 70% nhu cầu năng lượng
- Từ 1-2 tuổi sữa mẹ cung cấp 30-40% nhu cầu năng lượng
1.1.2 Lợi ích và sự cần thiết của việc nuôi con bằng sữa mẹ
1.1.2.1 Lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ
* Lợi ích đối với trẻ
- Là nguồn dinh dưỡng hoàn hảo, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của trẻ trong
- Thúc đẩy sự phát triển toàn diện của trẻ Giúp trẻ phát triển trí não tối ưu
- Phòng ngừa các bệnh nhiễm khuẩn, nhất là tiêu chảy và nhiễm khuẩn hô hấp
- Sữa mẹ có tác dụng chống dị ứng cho trẻ
- Dễ tiêu hóa và hấp thu
- Sạch sẽ, luôn sẵn sàng và ở nhiệt độ phù hợp
* Lợi ích đối với bà mẹ
- Cho trẻ bú sớm ngay sau khi sinh giúp xổ rau, kích thích co hồi tử cung và giảm nguy cơ chảy máu sau đẻ cho mẹ
- Cho trẻ bú ngay và thường xuyên sẽ kích thích tăng cường sản xuất sữa và phòng cương tức vú cho mẹ
- Bú mẹ có lợi ích kinh tế cao (tiết kiệm chi phí)
- Giúp tăng cường tình cảm mẹ con
- Giảm nguy cơ ung thư vú, ung thư buồng trứng cho mẹ
- Chậm có kinh và có thai lại giúp mẹ KHHGĐ
* Lợi ích với xã hội
- Giảm nguy cơ bệnh tật
- Giảm các chi phí y tế
1.1.2.2 Nguyên tắc nuôi con bằng sữa mẹ
- Trẻ bú càng sớm càng tốt ngay sau khi sinh (trong 1 giờ đầu) để kích thích mẹ tiết sữa
- Cho trẻ bú theo nhu cầu bất kể ngày đêm
- Bú hoàn toàn trong vòng 6 tháng đầu, không cần ăn thêm bất kỳ thức ăn đồ uống nào khác
- Bú hết một bên vú rồi mới chuyển sang bên kia để đảm bảo trẻ được bú cả sữa đầu và sữa cuối
- Thời gian trung bình mỗi bữa bú 15 - 20 phút
- Nên cai sữa khi trẻ được 24 tháng hay lâu hơn nếu có thể
- Khi mẹ bị bệnh, trẻ ốm, trẻ không tự bú được thì nên vắt sữa và cho trẻ ăn bằng thìa
1.1.3 Tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ
1.1.3.1 Những điểm chính trong tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ
Trẻ mới sinh cần được tiếp xúc da kề da với mẹ để dễ dàng chăm sóc và phát triển tình cảm mẹ - con Việc nằm cùng mẹ giúp trẻ ít khóc hơn và kéo dài thời gian bú Sữa non, có từ những tháng cuối thai kỳ, rất quan trọng cho trẻ và không nên vắt bỏ vì những hiểu lầm về chất lượng của nó.
Sữa non có màu hơi vàng và đục, không trắng như sữa thông thường Chất dinh dưỡng trong sữa mẹ được thiết kế phù hợp với hệ tiêu hóa của trẻ sơ sinh, đồng thời chứa nhiều kháng thể giúp bảo vệ trẻ khỏi bệnh tật.
* Phải cho con bú ngay trong vong 1 giờ đầu sau đẻ
Cho con bú sớm không chỉ giúp kích thích tuyến yên tiết oxytocin, mà còn làm cho tử cung co chặt hơn, giảm nguy cơ băng huyết sau sinh Bên cạnh đó, việc cho con bú sớm cũng thúc đẩy quá trình tiết sữa, giúp sữa về nhanh hơn, giảm tình trạng sưng đau và nguy cơ nhiễm khuẩn ở vú.
Sau khi sinh, trẻ chỉ cần bú sữa non của mẹ và không nên cho trẻ uống bất kỳ loại nước nào khác như nước cam thảo, nước đường, nước sâm hay nước lọc.
* Cho con bú hoàn toàn đến 6 tháng sau đẻ
Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Tình hình nuôi con bằng sữa mẹ
1.2.1.1 Tình hình nuôi con bằng sữa mẹ trên thế giới
Theo báo cáo của UNICEF (2006), tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu giai đoạn 1996-2004 ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương cao nhất với 43,0%, tiếp theo là Đông và Nam Phi 41,2%, Nam Á 37,6%, Trung Cận Đông và Nam Phi 29,3%, Trung Đông Âu và các quốc gia độc lập 22,0%, và Tây cũng như Trung Phi 20,4% Tại các nước đang phát triển, tỷ lệ này là 36,6%, trong khi ở các nước kém phát triển là 34,1% Tại Việt Nam, tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu chỉ đạt 15,4%, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Trung Quốc (50,3%), Lào (23,0%), Philippines (34,0%), và Ấn Độ với 96% trẻ em dưới 5 tuổi được nuôi bằng sữa mẹ, trong đó 25,4% được bú mẹ ngay trong 1 giờ đầu sau sinh.
Nghiên cứu của Fatemeh Roostaee và cộng sự (2015) cho thấy 71% bà mẹ ở phía Đông và phía Nam Iran cho con bú hoàn toàn đến 6 tháng, trong khi 48,2% tiếp tục cho con bú đến 24 tháng, với thời gian trung bình là 9,6 ± 5,19 tháng Tương tự, nghiên cứu của Díaz-Gómez NM và cộng sự (2013) tại Tây Ban Nha chỉ ra rằng lý do chính khiến phụ nữ ngừng cho con bú là do cảm giác sản xuất sữa thấp (29,3%), tiếp theo là việc trở lại làm việc (18%), khó khăn trong việc kết hợp cho con bú với công việc (43,1%), cho con bú nơi công cộng (39%), thức giấc ban đêm (62,3%), và trẻ tăng cân ít hơn (29,0%), trong khi 34% lựa chọn sử dụng thức ăn nhân tạo.
1.2.1.2 Tình hình nuôi con bằng sữa mẹ tại Việt Nam
Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn (NCBSM) trong 6 tháng đầu là tiêu chuẩn vàng trong chăm sóc trẻ nhỏ, được Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo Sữa mẹ cung cấp 100% nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ trong 6 tháng đầu, 50,1% trong giai đoạn từ 6 đến 12 tháng, và 33% trong năm thứ hai Việc duy trì NCBSM hoàn toàn giúp giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong ở trẻ dưới 1 tuổi Tuy nhiên, tỷ lệ bà mẹ thực hiện NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu tại Việt Nam vẫn còn thấp, chỉ đạt 19,6% theo khảo sát năm 2010, cho thấy chỉ có 1 trong 5 bà mẹ thực hiện đúng khuyến cáo này.
(1983) cho thấy tỷ lệ các bà mẹ hiểu đúng thế nào là NCBSMHT và thời gian
NCBSMHT rất thấp chỉ chiếm lần lượt là 30,2% và 17,5%[4]
Sữa non đóng vai trò quan trọng cho trẻ sơ sinh, nhưng tỷ lệ các bà mẹ vắt bỏ sữa non trước khi cho trẻ bú lần đầu và không cho trẻ bú sữa mẹ trong vòng 1 giờ sau sinh tại Việt Nam vẫn còn cao Theo tổng điều tra dinh dưỡng năm 2010, có tới 20% bà mẹ vắt bỏ sữa non Nghiên cứu của Cao Thu Hương và các đồng tác giả (2003) về việc nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung ở các bà mẹ dân tộc Tày-Nùng tại Lạng Sơn cho thấy 71,4% bà mẹ vắt bỏ sữa non trước khi cho trẻ bú lần đầu, và 27,7% bà mẹ đã cho trẻ ăn hoặc uống một loại thức ăn, nước uống nào đó trước khi cho bú.
Theo nghiên cứu của Viện nghiên cứu Y-Xã hội học (ISMS) phối hợp với Alive & Thrive (2012), tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn (NCBSMHT) và nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) giảm dần trong 6 tháng đầu đời Cụ thể, tỷ lệ NCBSMHT giảm từ 41,4% ở trẻ 1 tháng tuổi xuống chỉ còn 6,2% ở trẻ 5 tháng tuổi Việc cho trẻ uống nước, sữa bột và ăn thức ăn bổ sung quá sớm là những yếu tố cản trở việc nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn Tỷ lệ trẻ uống sữa bột là 17% ở trẻ dưới 1 tháng tuổi, 24% ở trẻ từ 2 đến 4 tháng tuổi, và 41,9% ở trẻ 5 tháng tuổi Mặc dù 79,5% trẻ được tiếp tục bú mẹ đến 1 năm tuổi, nhưng chỉ có 18,2% trẻ được tiếp tục bú mẹ đến 2 năm tuổi.
Trong 6 tháng đầu, tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ tại các tỉnh dự án cao hơn toàn quốc (20,2% so với 10,4%), nhưng tỷ lệ bú sớm sau sinh lại thấp hơn (50,5% so với 61,7%) Tỷ lệ trẻ tiếp tục được cho bú đến 2 tuổi không khác biệt nhiều so với điều tra của Viện Dinh dưỡng (22,1% và 18,2%) Việc cho trẻ ăn dặm sớm, bắt đầu từ tháng thứ 2, phổ biến ở Việt Nam, chủ yếu do mẹ cai sữa sớm và trở lại làm việc Thức ăn bổ sung có mật độ dinh dưỡng thấp và không đa dạng, dẫn đến tỷ lệ ăn bổ sung hợp lý ở trẻ 6-8 tháng chỉ đạt 51,7%, với gần một nửa trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng Thêm vào đó, 16% trẻ không được ăn đủ bữa, 28% không đủ năng lượng, và 18% không được cung cấp thực phẩm giàu sắt.
Quảng cáo quá mức và việc tặng quà từ các công ty sữa đã ảnh hưởng đến niềm tin của các bà mẹ trong việc lựa chọn sản phẩm thay thế sữa mẹ, dẫn đến việc giảm sự quan tâm đến nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) Nghiên cứu năm 2011 cho thấy gần 99% bà mẹ ở 10 tỉnh Việt Nam xem truyền hình, nhưng chỉ 40% trong số họ tiếp cận các chương trình tuyên truyền về NCBSM, trong khi hơn 80% xem quảng cáo sữa bột ít nhất một lần mỗi tuần Điều này đặt ra thách thức về việc quản lý hoạt động quảng cáo của các công ty sữa và tăng cường truyền thông về NCBSM trên các phương tiện thông tin đại chúng để hỗ trợ và bảo vệ việc nuôi con bằng sữa mẹ.
1.2.2 Nghiên cứu hiệu quả của truyền thông giáo dục
1.2.2.1 Nghiên cứu về hiệu quả của truyền thông giáo dục trên thế giới Ở nhiều nước đang phát triển hiện nay, đặc biệt ở nông thôn rất nhiều nơi còn truyền thống NCBSM, việc truyền thông giáo dục và động viên các bà mẹ tránh áp lực khiến họ không NCBSM và bảo vệ họ tránh khỏi các tác động có thể làm tổn hại đến việc NCBSM là rất cần thiết [3] Truyền thông giáo dục thúc đẩy NCBSM là rất hữu ích Đã có nhiều tác giả trên thế giới đã có những nghiên cứu đánh giá hiệu quả của truyền thông giáo dục sức khỏe đối với sự thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của các bà mẹ về NCBSM Hầu hết các nghiên cứu này đã cho thấy nhận thức thái độ, hành vi của các bà mẹ thay đổi một cách đáng kể sau khi được truyền thông giáo dục
Nghiên cứu của tác giả Ayele Lenja và cộng sự về các yếu tố quyết định việc cho bú mẹ hoàn toàn cho trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi tại huyện Offa, miền Nam Ethiopia, đã khảo sát 396 bà mẹ và đưa ra khuyến nghị rằng giáo dục và truyền thông là yếu tố quyết định cho việc nuôi con bằng sữa mẹ Do đó, cần tăng cường các chương trình truyền thông giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho tất cả phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ.
Nghiên cứu của Pisake Lumbiganon và cộng sự (2007) chỉ ra rằng giáo dục về nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) có vai trò quan trọng trong việc kéo dài thời gian cho trẻ bú mẹ Các can thiệp giáo dục, bao gồm truyền thông và tư vấn, đã làm tăng tỷ lệ NCBSM lên 43% vào ngày đầu tiên, 30% trong tháng đầu và 90% từ 1 đến 5 tháng tuổi Đồng thời, nghiên cứu cũng ghi nhận sự giảm đáng kể tỷ lệ các bà mẹ không cho con bú, với mức giảm 32% trong ngày đầu, 30% trong tháng đầu và 18% từ 1 đến 5 tháng.
1.2.2.2 Nghiên cứu về hiệu quả truyền thông tích cực ở Việt Nam Ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về nhận thức, thái độ và hành vi của các bà mẹ về NCBSM Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức độ mô tả thực trạng chứ ít đi sâu và tập trung vào can thiệp để thay đổi nhận thức, thái độ dẫn đến thay đổi hành vi của các bà mẹ trong việc NCBSM
Nghiên cứu của Lê Thiện Thái, Ngô Văn Toàn (2011) cho thấy kiến thức và thực hành về chăm sóc trước và sau sinh của phụ nữ sau can thiệp
So với năm 2008, vào năm 2011, kiến thức về khám thai đã tăng gấp ba lần, đạt 96,2% Tỷ lệ mẹ nhận thức đúng rằng sữa mẹ giúp tăng cường sức đề kháng cho trẻ cũng đã tăng từ 56,3% lên 72,9% Ngoài ra, tỷ lệ mẹ hiểu rằng trẻ được nuôi bằng sữa mẹ sẽ thông minh hơn trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ cũng tăng từ 10,8% lên 25,5%.
1 giờ đầu sau sinh đã tăng từ 70,7% lên 79,6% [4]
Nghiên cứu của Lê Thiện Thái và Ngô Văn Toàn (2012) cho thấy sự cải thiện rõ rệt trong kiến thức của các bà mẹ về nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) Cụ thể, tỷ lệ các bà mẹ biết cho trẻ bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh đã tăng từ 68% lên 97,6% vào năm 2010, trong khi tỷ lệ cho trẻ bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu cũng tăng từ 46% lên 89,1% sau can thiệp Thực hành NCBSM của các bà mẹ cũng được cải thiện, với tỷ lệ cho trẻ bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh tăng từ 79,7% lên 93,3%, và tỷ lệ cho trẻ bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu tăng từ 10,4% lên 36,9% sau can thiệp.
Nghiên cứu của Lê Thiện Thái và Ngô Văn Toàn (2012) đã chỉ ra rằng can thiệp truyền thông có tác động tích cực đến kiến thức của các bà mẹ về nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) Sau can thiệp, tỷ lệ bà mẹ hiểu biết về việc cho trẻ bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu tăng 1,5%, trong khi kiến thức về lợi ích của sữa mẹ tăng từ 42,4% lên 99,4%, cho thấy sự cải thiện rõ rệt trong nhận thức về giá trị dinh dưỡng và lợi ích của sữa mẹ, đặc biệt là khả năng giảm nguy cơ chảy máu sau sinh Những kết quả này chứng minh hiệu quả của can thiệp giáo dục truyền thông trong việc nâng cao kiến thức của các bà mẹ về NCBSM.
1.2.3 Những hoạt động và chính sách thúc đẩy nuôi con bằng sữa mẹ Ngày 22/02/2012, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 226/QĐ- TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030 với mục tiêu cụ thể của chiến lược là: Nâng cao hiểu biết và tăng cường thực hành dinh dưỡng hợp lý với chỉ tiêu về tỷ lệ trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đạt 27% vào năm 2015 và đạt 35% vào năm 2020 [1]
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN THANH HÓA
Khái quát sơ lược về bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa
Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa, thuộc Sở Y tế Tỉnh Thanh Hóa, là bệnh viện chuyên khoa hạng I với 750 giường bệnh kế hoạch và 814 giường thực kê, phục vụ trung bình 300 lượt khám mỗi ngày Bệnh viện có 13 khoa lâm sàng, 6 khoa cận lâm sàng và 8 phòng chức năng, chuyên điều trị cho bệnh nhân Sản - Phụ khoa tại Thanh Hóa và các vùng lân cận Trong năm 2020, bệnh viện đã tiếp nhận 95.467 lượt bệnh nhân khám và 50.065 lượt điều trị nội trú, thực hiện 12.998 ca phẫu thuật lấy thai và 6.681 ca đẻ thường, bao gồm nhiều ca bệnh nặng chuyển từ tuyến dưới Đội ngũ nhân lực của bệnh viện gồm 689 người, trong đó có 20 thạc sỹ, 8 bác sĩ chuyên khoa II, 37 bác sĩ chuyên khoa I, 60 bác sĩ và 371 điều dưỡng, nữ hộ sinh, kỹ thuật viên.
Hình 2.1: Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa
Bệnh viện chuyên ngành sản phụ khoa được chia thành bốn lĩnh vực chính: sản khoa, phụ khoa, sơ sinh và hỗ trợ sinh sản Trong đó, sản khoa là lĩnh vực có số lượng bệnh nhân đông đảo nhất và được xem là mũi nhọn của bệnh viện Để phát triển lĩnh vực này, bệnh viện luôn chú trọng đầu tư về nhân lực và vật lực Khối sản bao gồm năm khoa: khoa Hồi sức cấp cứu Sản, khoa Sản 1, khoa Sản 2, khoa Sản 3 và khoa Điều trị tự nguyện.
Thực trạng về công tác NCBSM tại Bệnh viện
2.2.1 Đối tượng tư vấn Đối tượng được tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ tại Bệnh viện bao gồm người bệnh tiền sản, nằm điều trị hoặc theo dõi thai nghén tại Bệnh viện, các bà mẹ đã sinh con, người nhà người bệnh (chồng, mẹ, người theo chăm,…), bệnh nhân điều trị tại bệnh viện vì các mặt bệnh khác đang thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ
2.2.2 Người thực hiện tư vấn Điều dưỡng, hộ sinh đang công tác tại Bệnh viện, đã được đào tạo, cập nhật kiến thức về tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ
2.2.3 Quy trình đi sinh tại Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa
* Đối với trường hợp đẻ thường
Sơ đồ 2.1: Quy trình đẻ thường tại Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa
Theo dõi thai kỳ nếu chưa chuyển dạ
Theo dõi chuyển dạ, sinh tại
Bé theo dõi tại HSTC SS nếu có diễn biến
Mẹ và bé nằm tại khoa Sản
* Đối với trường hợp đẻ mổ
Sơ đồ 2.2: Quy trình đẻ mổ tại Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa
Sau khi sinh thường, nếu trẻ ổn định, bé sẽ được ở bên mẹ toàn thời gian, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bú sớm và nuôi con bằng sữa mẹ Ngược lại, sau sinh mổ, bé phải tách mẹ ít nhất 10 tiếng, trong khi mẹ thường trải qua đau đớn và hạn chế vận động, cùng với tác dụng phụ của thuốc gây tê, dẫn đến việc sữa về chậm hơn Những yếu tố này gây bất lợi cho việc cho con bú sớm và hoàn toàn.
Theo dõi thai kỳ nếu chưa chuyển dạ
Mổ lấy thai tại Mổ-GMHS
Bé theo dõi tại HSTC SS
Mẹ TD hậu phẫu tại Mổ-GMHS
Mẹ và bé về khoa điều trị
2.2.4 Quy trình tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ tại Bệnh viện
Quy trình tư vấn về nuôi con bằng sữa mẹ tại Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa được thiết kế thống nhất, nhằm cung cấp thông tin và giáo dục sức khỏe cho các đối tượng khác nhau Người tư vấn sẽ linh hoạt áp dụng kiến thức phù hợp với từng bối cảnh, chẳng hạn như chia nhỏ thông tin theo ngày cho những bệnh nhân nằm viện dài ngày Phương pháp này giúp tránh tình trạng quá tải kiến thức, từ đó nâng cao hiệu quả của buổi tư vấn.
Theo kết quả đánh giá định kỳ 6 tháng cuối năm 2020, Bệnh viện đã tiến hành xem xét việc thực hiện tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ.
Nhận định BN về vấn đề NCBSM
Thực hiện tư vấn nội dung phù hợp
Hướng dẫn bằng hành động cụ thể
Kiểm tra, đánh giá lại sau tư vấn
Dựa trên quy trình đã được Bệnh viện ban hành, chúng tôi tiến hành dặn dò dưỡng/hộ sinh tại 5 khoa thuộc khối sản Tổng cộng có 100 lượt đánh giá, chia đều cho 5 khoa, mỗi khoa nhận được 20 lượt quan sát Kết quả thu được từ quá trình này như sau:
HSCC Sản Sản 1 Sản 2 Sản 3 ĐTTN
Bảng 2.1: Kết quả đánh giá việc tư vấn NCBSM theo quy trình chuẩn
Theo bảng kết quả, khoa Sản 2 dẫn đầu với tổng điểm 117/120, đạt tỷ lệ 97.50%, cho thấy chất lượng tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ tại đây là tốt nhất Trong khi đó, khoa ĐTTN đạt 112/120 điểm, tương đương 93.33%, thấp hơn 4 khoa còn lại.
Trong quy trình giao tiếp tại Bệnh viện, bước 1 - Chào hỏi và giới thiệu được thực hiện hiệu quả nhất nhờ sự nhắc nhở liên tục từ Ban lãnh đạo về việc tuân thủ quy chế giao tiếp Họ thường xuyên kiểm tra và đánh giá khả năng của bệnh nhân trong việc nhận diện tên của điều dưỡng hoặc hộ sinh phụ trách chăm sóc, điều này góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ y tế Tiếp theo, bước 3 cũng được chú trọng để đảm bảo sự hài lòng của bệnh nhân.
Tư vấn nội dung phù hợp là điều cần thiết để đảm bảo hiệu quả, cho thấy người tư vấn đã có kiến thức đầy đủ Tuy nhiên, các bước như hướng dẫn hành động, kiểm tra và đánh giá lại, cũng như dặn dò thường bị bỏ sót hoặc thực hiện không hiệu quả Đặc biệt, bước nhận định bệnh nhân về vấn đề NCBSM thường gặp lỗi khi người tư vấn không đánh giá đúng tình trạng của bệnh nhân, dẫn đến việc cung cấp thông tin không phù hợp và thiếu bổ ích Điều này có thể tạo cảm giác nhàm chán cho sản phụ khi nhận tư vấn liên tục mà không có sự chọn lọc về nội dung.
BÀN LUẬN
Sự quan tâm của bệnh viện về công tác tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ
Bệnh viện nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của sữa mẹ trong sự phát triển của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, cũng như lợi ích cho sức khỏe của bà mẹ Do đó, bệnh viện đã triển khai nhiều chương trình và hoạt động nhằm thúc đẩy việc nuôi con bằng sữa mẹ.
Bệnh viện đã triển khai đầy đủ các quy định của nhà nước liên quan đến tư vấn và hướng dẫn nuôi con bằng sữa mẹ, cũng như quản lý các sản phẩm thay thế sữa mẹ, bao gồm quyết định số 226/QĐ-TTg ngày 22/02/2012 và Nghị định 100/2014/NĐ-CP.
CP ngày 6/11/2014; Thông tư số 38/2016/TT-BYT ngày 31/10/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế
Hằng năm, Bệnh viện tích cực tham gia tuần lễ nuôi con bằng sữa mẹ từ 1-7/8 với nhiều hoạt động ý nghĩa, bao gồm việc treo băng rôn và khẩu hiệu nhằm cổ vũ việc nuôi con bằng sữa mẹ.
Bệnh viện cam kết thực hiện nghiêm túc "10 điều kiện nuôi con bằng sữa mẹ", với bảng nội dung được treo ở những vị trí trang trọng và dễ nhìn thấy, nhằm nâng cao nhận thức và hỗ trợ các bà mẹ trong việc nuôi dưỡng trẻ bằng sữa mẹ.
Khu tiếp đón người bệnh vào viện, Sảnh chờ khu khám bệnh
Bệnh viện cũng quản lý chặt chẽ việc tư vấn dùng sữa và bán sữa công thức trong
Bệnh viện Chỉ bán sữa khi có chỉ định của bác sỹ
Hình 2.2: 10 điều kiện nuôi con bằng sữa mẹ
Các hoạt động của Bệnh viện nhằm tăng cường hiệu quả tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ
Từ tháng 2/2017, Bệnh viện đã triển khai thực hiện EENC trong đẻ, theo đó ngay sau khi sinh, em bé sẽ được đặt lên bụng mẹ để tiếp xúc da kề da Sau khi được lau khô, trẻ có thể thể hiện dấu hiệu đòi ăn như liếm tay và chảy dãi, từ đó bản năng sinh tồn giúp trẻ tìm vú mẹ để bú những giọt sữa non đầu tiên Việc cho trẻ bú sớm không chỉ quan trọng cho việc nuôi con bằng sữa mẹ sau này mà còn giúp kích thích sản xuất sữa và giảm nguy cơ tắc tia sữa trong những ngày tiếp theo.
Sau khi sinh thường, nếu sức khỏe của bé ổn định, bé sẽ được nằm cạnh mẹ mà không cần tách rời để theo dõi Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc cho trẻ bú trực tiếp.
Việc thực hiện EENC trong quá trình sinh đẻ phụ thuộc nhiều vào sự tư vấn và hướng dẫn của điều dưỡng và hộ sinh viên Họ đóng vai trò quan trọng trong việc giúp bệnh nhân cảm thấy tin tưởng và nhận thức rõ tầm quan trọng của việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh (NCBSM).
Tại các khoa điều trị thu dung bệnh nhân sau đẻ/mổ lấy thai như Sản 1, Sản 2, Sản 3, Điều trị tự nguyện, vai trò tư vấn và giáo dục sức khỏe của điều dưỡng/hộ sinh rất quan trọng Với mô hình chăm sóc nhóm, bệnh nhân được phân theo nhóm phòng và một nhóm điều dưỡng/hộ sinh sẽ phụ trách Ngay từ những giờ đầu khi nhập khoa, bệnh nhân được tư vấn và hướng dẫn về cách cho trẻ bú đúng, lợi ích của sữa mẹ và cách duy trì nguồn sữa.
Hình 2.4: Tư vấn, giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân
Bệnh viện đã áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt nhằm nâng cao hiệu quả nuôi con bằng sữa mẹ, bao gồm việc cấm sử dụng bình bú trừ khi có chỉ định đặc biệt từ bác sĩ và khuyến khích thi đua giữa các điều dưỡng/hộ sinh để đảm bảo bệnh nhân thực hiện tốt việc nuôi con bằng sữa mẹ.
Bệnh viện đã thiết lập các phương án hỗ trợ kịp thời cho bệnh nhân gặp khó khăn, bao gồm việc thành lập đội ngũ chuyên gia nuôi con bằng sữa mẹ Đội ngũ này sẽ sẵn sàng giúp đỡ bệnh nhân thông qua các phương pháp như massage kích thích sữa và điều trị tắc tia sữa.
Hình 2.5: Massage vú chữa tắc tia sữa
Bệnh viện tổ chức các hội thảo và lớp tập huấn định kỳ nhằm cung cấp và cập nhật kiến thức đầy đủ cho những người thực hiện tư vấn.
Hình 2.6: Đào tạo EENC trong đẻ và NCBSM
Một số hạn chế trong công tác tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ tại bệnh viện 31 Chương 4 KẾT LUẬN
Điều dưỡng và hộ sinh trong quá trình tư vấn NCBSM thường chưa tuân thủ đúng quy trình đã được bệnh viện quy định, dẫn đến việc bỏ qua bước nhận định bệnh nhân và hướng dẫn hành động cụ thể Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả tư vấn, khi mà nhiều trường hợp tư vấn không dựa vào nhu cầu và tình trạng cụ thể của bệnh nhân, mà lại đưa ra những thông tin chung chung, dài dòng, áp dụng cho tất cả bệnh nhân trong suốt thời gian điều trị.
Hiệu quả tư vấn giữa các khoa tại Bệnh viện chưa đồng đều, mặc dù tất cả điều dưỡng và hộ sinh đã tham gia khóa đào tạo về NCBSM Sự chủ động và linh hoạt trong công việc của người tư vấn còn hạn chế, và hiệu quả tư vấn bị ảnh hưởng bởi sự đốc thúc của ban lãnh đạo khoa cũng như việc giám sát từ Phòng điều dưỡng.
Bệnh viện chưa áp dụng phương pháp EENC trong mổ lấy thai, dẫn đến việc trẻ sơ sinh phải tách khỏi mẹ và được theo dõi tại khoa HSTC Sơ sinh Do đó, trẻ sinh mổ không thể bú mẹ sớm.
Sự phổ biến của các phương tiện truyền thông về sữa công thức đã làm giảm niềm tin của các bà mẹ đối với sữa mẹ, dẫn đến những khó khăn trong việc tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ.
Bệnh viện hiện chưa có ngân hàng sữa mẹ, dẫn đến việc không có nguồn sữa dự trữ cho những trẻ em có mẹ ít sữa hoặc sữa về chậm.
Khối lượng công việc khá lớn, thủ tục hành chính nhiều gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tư vấn của điêu dưỡng/hộ sinh
Trong những năm gần đây, Nhà nước đã chú trọng đến việc bảo vệ sức khỏe của bà mẹ và trẻ em Bộ Y Tế đã thực hiện nhiều chương trình chăm sóc sức khỏe trẻ em, đặc biệt là chương trình khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ.
WHO và UNICEF khuyến nghị nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn ngay sau khi sinh cho đến 6 tháng tuổi, sau đó kết hợp với thức ăn bổ sung đầy đủ cho đến 2 năm tuổi Sự phát triển của xã hội và ngành sữa công thức đã ảnh hưởng đến quan niệm nuôi con bằng sữa mẹ, vì vậy vai trò của những người điều dưỡng và hộ sinh trong việc tư vấn và giáo dục sức khỏe trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Dựa trên kết quả báo cáo chuyên đề về công tác chăm sóc và tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ tại Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa, có thể rút ra một số kết luận quan trọng như sau: việc chăm sóc và tư vấn hiệu quả không chỉ nâng cao nhận thức của các bậc phụ huynh về lợi ích của sữa mẹ mà còn góp phần cải thiện sức khỏe của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững của cộng đồng.
* Về thực trạng tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ tại Bệnh viện
- Bệnh viện luôn đề cao tầm quan trọng của việc nuôi con bằng sữa mẹ
- Bệnh viện đã có những quy định, chính sách phù hợp, kịp thời hướng tới việc nuôi con bằng sữa mẹ
- Điều dưỡng/hộ sinh đã và đang thực hiện cơ bản tốt việc tư vấn – giáo dục sức khỏe về nuôi con bằng sữa mẹ
- 100% sản phụ được tư vấn, hướng dẫn nuôi con bằng sữa mẹ
- Tuy nhiên vẫn còn một phần nhỏ số bệnh nhân bị tắc tia sữa cho chưa cho bé bú đúng cách và không cho bé bú sớm
- Điều dưỡng/hộ sinh đôi khi còn chưa chủ động, chưa linh hoạt, chưa bám sát quy trình trong việc tư vấn về nuôi con bằng sữa mẹ
- Việc thực hiện tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ giữa các khoa còn chưa đồng đều
* Về những yếu tố liên quan ảnh hưởng đến công tác tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ:
- Sự phát triển nhanh chóng của ngành sữa khiến các mẹ đôi khi đã thần thánh hóa sữa công thức mà nghĩ rằng sữa mẹ không tốt bằng
- Sự mệt mỏi, đau đớn sau sinh khiến các mẹ ngại cho bé bú
- Cơ sở vật chất còn hạn chế, ít phòng riêng, việc nằm chung nhiều bệnh nhân cùng phòng khiến sản phụ thấy bất tiện
- Khối lượng công việc nhiều, gánh nặng công tác hành chính ảnh hưởng không nhỏ đến công tác tư vấn của điều dưỡng viên
- Sự đốc thúc của lãnh đạo khoa, sự giám sát của phòng Điều dưỡng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tư vấn NCBSM
Chương 5 MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, GIẢI PHÁP
Để cải thiện công tác tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ tại Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa, tôi đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hỗ trợ và thông tin cho các bà mẹ.
Bệnh viện cần thiết lập quy định yêu cầu 100% cán bộ y tế nắm rõ và tuân thủ quy trình tư vấn NCBSM Đặc biệt, cần chú trọng cải thiện các bước chưa thực hiện hiệu quả, bao gồm nhận định người bệnh, hướng dẫn bằng hành động và thực hiện đánh giá lại sau khi tư vấn.
Tập huấn cho cán bộ về kỹ năng tư vấn và kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ không chỉ nhằm cung cấp thông tin mà còn giúp bồi dưỡng kỹ năng cho người điều dưỡng và hộ sinh Điều này giúp họ linh hoạt trong việc tư vấn, đáp ứng đúng những nhu cầu và mong muốn thực sự của bệnh nhân.
Để nâng cao hiệu quả tư vấn và mức độ tuân thủ nuôi con bằng sữa mẹ của bệnh nhân, cần đưa các chỉ tiêu này vào quy chế chuyên môn Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra và giám sát định kỳ cũng như đột xuất, đặc biệt chú trọng đến các khoa có kết quả thực hiện kém như khoa Sản 3 và khoa Điều trị tự nguyện.
Để nâng cao hiệu quả truyền thông, cần áp dụng đa dạng các phương pháp như tư vấn trực tiếp, sử dụng tranh ảnh tư vấn, pano, áp phích và khẩu hiệu tại bảng truyền thông của khoa Ngoài ra, phát thanh thông tin từ Bệnh viện vào các khung giờ ngoài giờ hành chính cũng là một cách hiệu quả để tiếp cận và thông báo cho cộng đồng.
Bệnh viện đã dành một phần quỹ riêng để phát triển công tác nghiên cứu và chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em thông qua nhiều hình thức khác nhau Cụ thể, bệnh viện thành lập ngân hàng sữa mẹ và in ấn các pano, áp phích, tranh ảnh nhằm làm phong phú nội dung tư vấn, giúp thu hút sự chú ý và hứng thú của người nghe.
Phối hợp với y tế tuyến dưới và y tế xã/phường để truyền thông cung cấp thông tin cho cộng đồng là rất quan trọng Điều này giúp thay đổi tư duy và quan niệm sai lầm của người dân về việc nuôi con bằng sữa mẹ, từ đó nâng cao nhận thức và khuyến khích các bà mẹ thực hành nuôi con bằng sữa mẹ một cách đúng đắn.
1 Bộ Y tế (2005) : Kế hoạch hành động nuôi dưỡng trẻ nhỏ giai đoạn 2005-