1. Trang chủ
  2. » Y Tế - Sức Khỏe

Khảo sát kiến thức chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh của sản phụ sinh mổ lần một tại bệnh viện phụ sản thanh hóa năm 2021

73 69 5

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Khảo Sát Kiến Thức Chăm Sóc Bà Mẹ Và Trẻ Sơ Sinh Của Sản Phụ Sinh Mổ Lần I Tại Bệnh Viện Phụ Sản Thanh Hóa Năm 2021
Tác giả Lê Thị Hải
Người hướng dẫn TS.BS Vũ Văn Thành
Trường học Trường Đại Học Điều Dưỡng Nam Định
Chuyên ngành Điều dưỡng sản phụ khoa
Thể loại báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
Năm xuất bản 2021
Thành phố Nam Định
Định dạng
Số trang 73
Dung lượng 1,8 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1 (12)
    • 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN (12)
      • 1.1.1. Sơ lược về lịch sử mổ lấy thai (12)
      • 1.1.2. Thay đổi về giải phẫu và sinh lý sau đẻ (13)
      • 1.1.3. Những nguy cơ về sức khỏe của bà mẹ thời kỳ hậu sản (17)
      • 1.1.4. Những Biến cố có thể xảy ra trong khi mổ lấy thai (19)
      • 1.1.5. Những biến chứng sau mổ lấy thai (19)
    • 1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN (21)
      • 1.2.1. Thực trạng kiến thức chăm sóc sau sinh của sản phụ sau đẻ (21)
      • 1.2.2. Các nội dung kiến thức chăm sóc bà mẹ sau mổ lấy thai (23)
  • CHƯƠNG 2 (27)
    • 2.1. MÔ TẢ VẤN ĐỀ (0)
      • 2.2.1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu (0)
      • 2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu (0)
      • 2.2.3. Xử lý số liệu (0)
    • 2.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (0)
      • 2.2.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu (0)
      • 2.2.2. Sự hiểu biết của sản phụ về chăm sóc sau sinh mổ (0)
  • Chương 3 (0)
    • 3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu (49)
    • 3.2. Sự hiểu biết của sản phụ về chăm sóc sau sinh mổ (51)
    • 3.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao kiến thức chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh của sản phụ sinh mổ lần một tại Bệnh viện phụ sản Thanh Hóa (67)
  • KẾT LUẬN (69)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1.1 Sơ lược về lịch sử mổ lấy thai

Theo sử sách của người Ai Cập, mổ lấy thai đã được đề cập vào những năm

Vào khoảng 3000 năm trước Công nguyên, mổ lấy thai chỉ được thực hiện trên những người mẹ đã chết hoặc đang trong tình trạng hấp hối nhằm cứu sống đứa trẻ Đến năm 730 trước Công nguyên, Hoàng Đế La Mã Popilus đã ban hành lệnh cấm chôn cất sản phụ mà chưa thực hiện mổ lấy thai.

Vào năm 1500, Jacob Nufer, một người Thụy Sĩ làm nghề thiến lợn, đã thực hiện ca mổ lấy thai đầu tiên trên người sống Ông đã phải rạch bụng vợ mình để cứu đứa con, sau khi 12 bà đỡ không thể giúp đỡ trong trường hợp sinh khó.

Vào năm 1610, Jaremius Tractmasnm (Đức) đã thực hiện ca phẫu thuật lấy thai bằng cách rạch dọc tử cung mà không khâu phục hồi, nhưng người mẹ chỉ sống được 25 ngày sau mổ, với tỷ lệ tử vong mẹ đạt 100% khi phương pháp này được áp dụng rộng rãi ở châu Âu Đến năm 1794, ca mổ lấy thai đầu tiên thành công đã xảy ra tại bang Virginia, Hoa Kỳ, cứu sống cả mẹ và con Năm 1805, Osiander đề xuất phương pháp phẫu thuật rạch dọc đoạn dưới tử cung để lấy thai, nhưng không nhận được sự chú ý cần thiết.

Năm 1882, Max Sanger, một bác sĩ người Đức, đã giới thiệu phương pháp mổ dọc thân tử cung để lấy thai với kỹ thuật khâu phục hồi cơ tử cung 2 lớp, được biết đến như mổ lấy thai cổ điển Mặc dù phương pháp này đã được phát triển, tỷ lệ tử vong mẹ vẫn cao do viêm phúc mạc Để chia sẻ kiến thức về kỹ thuật này, ông đã xuất bản cuốn sách dày 200 trang mang tên “Kỹ thuật mổ lấy thai”, được gọi là kỹ thuật Sanger.

Năm 1926, Beek, Kerr và De Lee đã phát triển kỹ thuật rạch ngang đoạn dưới tử cung và khâu phủ phúc mạc sau khi khâu cơ tử cung Kỹ thuật này đã được áp dụng rộng rãi cho đến giữa thế kỷ XX, tuy nhiên, việc mổ lấy thai vẫn còn gặp nhiều hạn chế do tình trạng nhiễm khuẩn và sự yếu kém trong gây mê hồi sức.

Vào năm 1940, Flemming phát minh ra kháng sinh, giúp giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn một cách đáng kể Đến những năm 1950, sự phát triển trong lĩnh vực gây mê hồi sức với các phương tiện và thuốc tê, thuốc mê hiện đại đã mang lại sự an toàn cao hơn cho cả mẹ và con trong các ca phẫu thuật mổ lấy thai.

Trước năm 1950, mổ lấy thai ở Việt Nam rất hạn chế do nguy cơ nhiễm khuẩn cao, thiếu kháng sinh và hạn chế trong gây mê hồi sức Sau khi kháng sinh ra đời, phương pháp này mới được áp dụng rộng rãi Năm 1956, phẫu thuật mổ dọc đoạn dưới tử cung lấy thai lần đầu tiên được thực hiện tại Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) và sau đó, giáo sư Đinh Văn Thắng đã thực hiện mổ ngang đoạn dưới tử cung tại đây Hiện nay, phương pháp mổ lấy thai này đang được áp dụng phổ biến trên toàn quốc.

1.1.2 Thay đổi về giải phẫu và sinh lý sau đẻ

Thân tử cung trải qua nhiều thay đổi sau khi sổ rau, bắt đầu co lại, trở nên nhỏ gọn và rắn chắc, với trọng lượng khoảng 1000 gram và chiều cao trên 13cm Trong 1-2 ngày đầu, tử cung co lại nhanh chóng với tốc độ 2cm mỗi ngày, sau đó giảm dần còn 1cm mỗi ngày Đến hết tuần đầu, trọng lượng tử cung giảm đáng kể.

500 gam, sau 3 tuần tử cung nấp sau xương vệ và nặng 50-70 gam [6]

Sau khi sinh, lớp cơ tử cung dày khoảng 3-4 cm và các thành trước, sau co lại để cầm máu Dần dần, lớp cơ này sẽ mỏng đi do các sợi cơ nhỏ lại và một số sợi cơ thoái hóa mỡ, dẫn đến sự thu nhỏ của tử cung Đồng thời, mạch máu cũng co lại nhờ vào sự co hồi của lớp cơ.

Sau khi sinh, đoạn dưới của tử cung co lại như một chiếc đàn xếp, dần dần ngắn lại và sau khoảng 5-8 ngày sẽ trở về hình dạng eo tử cung, khiến lỗ trong của cổ tử cung đóng lại Trong khi đó, lỗ ngoài của cổ tử cung sẽ đóng lại muộn hơn, khoảng 12-13 ngày sau khi sinh.

-Thay đổi ở niêm mạc tử cung: Sau đẻ, để trở lại bình thường niêm mạc tử cung phải trải qua 2 giai đoạn [6]:

Giai đoạn thoái triển sau khi sinh diễn ra trong 14 ngày đầu, trong đó lớp bề mặt các ống tuyến và sản bào bị hoại tử và được đào thải, để lại lớp đáy làm nguồn gốc cho niêm mạc tử cung mới Tiếp theo, giai đoạn phát triển bắt đầu, nhờ tác động của estrogen và progesteron, niêm mạc tử cung sẽ tái tạo và phát triển hoàn toàn sau 6 tuần, chuẩn bị cho kỳ kinh nguyệt đầu tiên nếu không cho con bú.

Sản phụ sinh mổ có sự thay đổi đặc biệt ở tử cung, với vết mổ khiến quá trình co hồi của tử cung diễn ra chậm hơn.

1.1.2.2 Thay đổi phúc mạc và thành bụng

Sau khi sinh, tử cung co lại và kéo theo phúc mạc co theo, tuy nhiên, vào ngày đầu tiên, phúc mạc co chậm khiến bề mặt tử cung trở nên nhăn nheo Trong những ngày tiếp theo, nếp nhăn sẽ dần mất đi khi phúc mạc teo lại Thành bụng cũng co dần, nhưng các vết rạn vẫn còn tồn tại Cân cơ co lại nhưng vẫn nhão hơn so với trước khi mang thai, đặc biệt ở những phụ nữ đã sinh nhiều lần, sinh con to, hoặc mang đa thai.

1.1.2.3 Thay đổi ở âm hộ, âm đạo và các phần phụ

- Các dây chằng của tử cung, các vòi trứng, buồng trứng dần dần trở lại bình thường về chiều dài, hướng và vị trí hết thời kỳ hậu sản

Âm hộ và âm đạo sẽ giãn rộng trong quá trình sinh nở, nhưng sẽ trở lại trạng thái bình thường sau khoảng 15 ngày Sự giảm Estrogen dẫn đến niêm mạc âm đạo trở nên mỏng manh, dễ gãy và dễ bị tổn thương, đặc biệt khi có hoạt động tình dục mạnh, có thể gây rách Với biểu mô âm đạo mỏng và lượng tế bào ít, hàm lượng glycogen thấp khiến trực khuẩn Doderlein giảm, làm pH âm đạo chuyển sang môi trường kiềm, dễ dẫn đến nhiễm khuẩn Hơn nữa, sản dịch chứa protein phân hủy cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự gia tăng nhiễm khuẩn hậu sản Âm môn sẽ hé mở ngay sau khi sinh và khép lại sau khoảng 2 tuần.

Ở sản phụ sinh mổ, dù không trải qua quá trình sinh thường, nhưng vẫn có những thay đổi sinh lý ở âm đạo tương tự như khi sinh thường, điều này xảy ra do ảnh hưởng của hormone trong thai kỳ và sự bài tiết sản dịch.

CƠ SỞ THỰC TIỄN

1.2.1 Thực trạng kiến thức chăm sóc sau sinh của sản phụ sau đẻ

1.2.1.1 Kiến thức chăm sóc sau sinh của sản phụ sau đẻ trên thế giới

Kiến thức chăm sóc sau đẻ rất quan trọng đối với bà mẹ, giúp phát hiện sớm và xử trí kịp thời các bất thường cho cả mẹ và trẻ sơ sinh, từ đó giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong Việc nâng cao kiến thức này không chỉ giúp bà mẹ chăm sóc bản thân mà còn chăm sóc trẻ một cách khoa học Nghiên cứu cho thấy, sự quan tâm đến kiến thức chăm sóc sau đẻ chưa được chú trọng như chăm sóc trước đẻ, với 80% bà mẹ ở Mali nhận thức được tầm quan trọng của chăm sóc trước đẻ, trong khi chỉ 60% quan tâm đến chăm sóc sau đẻ Đặc biệt, có 21,1% bà mẹ không biết cần khám lại sau đẻ, và chỉ 2,1% hiểu rõ về việc cần có cán bộ y tế kiểm tra sức khỏe trong hai tuần đầu Tại Iran, 78,5% bà mẹ có kiến thức chăm sóc sơ sinh ở mức trung bình, nhưng chỉ 13,3% có kiến thức đúng, và 8,2% không có kiến thức về chăm sóc con sau đẻ.

Nghiên cứu của Trịnh Hữu Vách năm 2009 tại 14 tỉnh miền Bắc và Tây Nguyên chỉ ra rằng có rất ít thông tin về kiến thức và thực hành của các bà mẹ sau khi sinh.

Chỉ 42,1% phụ nữ sau sinh nhận được sự chăm sóc tại nhà từ cán bộ y tế, cho thấy sự thiếu hụt trong kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh Một nghiên cứu cho thấy chỉ có 14,9% phụ nữ biết thời điểm cần áp dụng biện pháp tránh thai sau khi sinh Tại huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về chăm sóc sơ sinh chỉ đạt 40%, trong khi kiến thức về dấu hiệu nguy hiểm và biện pháp kế hoạch hóa gia đình lần lượt chỉ đạt 25,6% và 29,2% Hơn nữa, chỉ 50,7% và 59,5% phụ nữ biết cần bổ sung viên Sắt và Vitamin A sau sinh Nghiên cứu cũng cho thấy 55% phụ nữ có kiến thức đúng về các biện pháp tránh thai sau sinh mổ.

Nghiên cứu năm 2007 cho thấy kiến thức của các bà mẹ về chăm sóc sau sinh còn hạn chế, với khoảng 75% biết thời điểm cho bú mẹ nhưng lại thiếu hiểu biết về chế độ dinh dưỡng cần thiết cho trẻ và biện pháp tránh thai đúng cách Đặc biệt, ở khu vực miền núi, chỉ có 13,1% bà mẹ có kiến thức khá, 36,4% có thái độ đúng và chỉ 10% thực hành đúng các biện pháp làm mẹ an toàn.

Thực trạng kiến thức và thực hành chăm sóc sơ sinh tại Việt Nam hiện nay còn yếu kém và bị ảnh hưởng bởi các giá trị truyền thống Nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Anh chỉ ra rằng vấn đề sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là sức khỏe sinh sản, đang là một thách thức lớn trước thế kỷ 21 Theo Viện chiến lược và chính sách y tế, Bộ Y tế năm 2000, thời gian ở cữ theo quan niệm truyền thống kéo dài 100 ngày (3 tháng).

Trong 10 ngày ở cữ, bà mẹ cần tuân thủ nhiều kiêng kỵ liên quan đến chế độ ăn uống và nghỉ ngơi Cụ thể, bà mẹ nên tránh gội đầu, tắm, xem tivi, đọc sách, ăn cá và các thực phẩm tanh, cũng như hạn chế tiếp xúc với ánh nắng mặt trời trực tiếp.

Mặc dù số lượng nghiên cứu về chăm sóc sau sinh không nhiều như các nghiên cứu về mang thai và sinh nở, nhưng các tác giả trong và ngoài Việt Nam đã cung cấp cái nhìn tổng quan về thực trạng chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, nhấn mạnh những đặc điểm quan trọng trong lĩnh vực này.

Chăm sóc sau sinh cho bà mẹ và trẻ sơ sinh hiện nay còn nhiều bất cập, chịu ảnh hưởng từ tập quán, phong tục và sự tham gia của gia đình, trong khi hệ thống y tế chưa thực sự can thiệp Giai đoạn hậu sản tiềm ẩn nhiều nguy cơ sức khỏe, đặc biệt là đối với bà mẹ sinh mổ Việc cung cấp kiến thức và hướng dẫn thực hành chăm sóc sau sinh đầy đủ sẽ giúp giảm thiểu biến chứng và nâng cao chất lượng cuộc sống cho cả mẹ và trẻ, góp phần mang lại hạnh phúc cho gia đình và xã hội Tại Bệnh viện phụ sản Thanh Hoá, nghiên cứu về chăm sóc sản phụ sau sinh mổ còn hạn chế, điều này thúc đẩy nhóm nghiên cứu thực hiện chuyên đề nhằm cải thiện chăm sóc thiết yếu cho bà mẹ và trẻ sơ sinh.

1.2.2 Các nội dung kiến thức chăm sóc bà mẹ sau mổ lấy thai

1.2.2.1 Chăm sóc về tinh thần

Chăm sóc tinh thần cho sản phụ sau sinh, đặc biệt là sau mổ lấy thai, là rất quan trọng vì tâm trạng của mỗi sản phụ có thể khác nhau Những sản phụ cảm thấy vui vẻ và phấn khởi khi có cuộc sinh an toàn và con khỏe mạnh, trong khi những sản phụ khác có thể buồn phiền, lo lắng nếu cuộc sinh không thuận lợi hoặc không nhận được sự quan tâm từ gia đình Những yếu tố tâm lý này ảnh hưởng đến quá trình hồi phục sau sinh Do đó, người hộ sinh cần gần gũi và chú ý đến sản phụ để phát hiện các vấn đề tâm thần, phối hợp với bác sĩ và người thân nhằm xử lý các rối loạn tâm thần, giúp sản phụ hồi phục tốt và tự chăm sóc bản thân cũng như trẻ sơ sinh.

1.2.2.2 Chăm sóc về dinh dưỡng

Sau khi mổ, sản phụ thường mất một lượng máu đáng kể, vì vậy cơ thể cần được bổ sung kịp thời các dưỡng chất để phục hồi sức khỏe Việc cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng là rất quan trọng để hỗ trợ quá trình hồi phục sau phẫu thuật.

Chế độ ăn uống hàng ngày của sản phụ có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và chất lượng sữa mẹ, vì vậy việc duy trì một chế độ dinh dưỡng phong phú là rất quan trọng cho sức khỏe của cả mẹ và trẻ sơ sinh Sản phụ nên bắt đầu ăn sớm, đặc biệt là sau sinh mổ, với chế độ ăn nhẹ nhưng đầy đủ dinh dưỡng trong khoảng thời gian từ 6 đến 12 giờ sau phẫu thuật Việc tiêu thụ đa dạng thực phẩm, đặc biệt là nhóm thực phẩm giàu đạm và sắt như thịt lợn, thịt bò, thịt gà, cá và trứng, sẽ giúp nhanh chóng hồi phục vết mổ và ngăn ngừa tình trạng thiếu máu Ngoài ra, thực phẩm giàu vitamin C và chất xơ như rau ngót, rau muống, súp lơ, cam, quýt và đu đủ cũng rất cần thiết để tăng cường sức đề kháng và chống táo bón Đặc biệt, thực phẩm giàu canxi như sữa, phô mai và hải sản sẽ giúp củng cố hệ xương của mẹ và hỗ trợ sự phát triển xương và răng của trẻ Cuối cùng, sản phụ cần uống đủ nước để bù đắp lượng nước đã mất và tạo sữa cho bé bú.

Sau sinh mổ, bà mẹ cần tuân thủ nguyên tắc dinh dưỡng như sau: Ngày đầu sau mổ, nên cho ăn sớm trong khoảng 6 – 12 giờ với thức ăn nhẹ như nước cháo muối hoặc cháo loãng Đến ngày thứ hai, nếu sản phụ đã trung tiện, có thể ăn cơm và uống nước như bình thường Tuy nhiên, do ruột bị kích thích và dạ dày bị ức chế, việc ăn nhiều có thể gây khó khăn trong tiêu hóa, dẫn đến táo bón và đầy hơi, ảnh hưởng đến quá trình hồi phục sức khỏe Cần hạn chế thực phẩm kích thích như hành, tỏi, ớt, rượu, bia, cà phê, thuốc lá và các thực phẩm gây dị ứng, đồng thời tránh ăn thực phẩm không đảm bảo an toàn.

1.2.2.3 Chế độ vận động và vệ sinh

Khoảng 12 giờ sau sinh mổ, sản phụ có thể trở dậy nhẹ nhàng Lúc đầu sản phụ có thể cảm thấy khó khăn khi ngồi, đứng dậy hay di chuyển do đau vùng mổ, căng thẳng và lo sợ Cần khuyến khích sản phụ nên ngồi dậy sớm để sản dịch thoát

Sau khi sinh mổ, sản phụ nên ra đường âm đạo dễ dàng để chống bế sản dịch và giúp nhu động ruột trở lại bình thường, ngăn ngừa tắc ruột do dính ruột Việc di chuyển xung quanh giường là cần thiết để duy trì tuần hoàn cho đôi chân và phòng ngừa viêm tắc tĩnh mạch, đặc biệt ở chi dưới Sản phụ cần chú ý vận động nhẹ nhàng để không ảnh hưởng đến vết thương Luyện tập thể dục có thể bắt đầu sau 6 tuần hậu sản với những bài tập đơn giản như đi bộ và các bài tập chân tay nhẹ nhàng, và có thể lao động nhẹ sau 6 tháng Về vệ sinh thân thể, sản phụ có thể tắm sau 4-7 ngày sau mổ, thay váy áo hàng ngày, và vệ sinh vú, bộ phận sinh dục bằng cách thay khố vệ sinh 4-5 lần mỗi ngày khi khố ướt hoặc sau khi đi đại tiểu tiện.

1.2.2.4 Vấn đề nuôi con bằng sữa mẹ

Sữa non là nguồn dinh dưỡng quý giá cho trẻ sơ sinh, cung cấp protein, lactose, nước, muối khoáng và kháng thể IgA, giúp bảo vệ cơ thể trẻ khỏi nhiễm trùng và dị ứng Việc cho trẻ bú sớm sữa non không chỉ kích thích tiết sữa mà còn hỗ trợ hồi phục tử cung và tống sản dịch ra ngoài Đối với sản phụ sau sinh mổ, việc cho con bú trong những ngày đầu có thể gặp khó khăn do đau đớn và phải nằm ở phòng hồi sức Do đó, sản phụ cần sự hỗ trợ từ cán bộ y tế và người thân, nên chọn tư thế nằm nghiêng thoải mái và bế bé ở bên tay thuận để tránh làm tổn thương vết mổ.

Đặc điểm đối tượng nghiên cứu

Biểu đồ 3.1 cho thấy tuổi của sản phụ mổ lấy thai trong nghiên cứu này dao động từ 15 đến 45 tuổi, với sản phụ trẻ nhất là 15 tuổi và lớn tuổi nhất là 45 tuổi Đặc biệt, phần lớn thai phụ nằm trong độ tuổi từ 20 đến 35, chiếm tới 78,3% Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Hải Chiến [21] và Nguyễn Thị Liên [19].

Nghiên cứu chỉ ra rằng độ tuổi của thai phụ mổ lấy thai chủ yếu tập trung ở nhóm tuổi 20-34, đây là giai đoạn lý tưởng cho việc sinh đẻ và tham gia các hoạt động xã hội Ở độ tuổi này, phụ nữ đã phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, giúp họ dễ dàng phục hồi sức khỏe sau sinh và vượt qua những khó khăn trong quá trình chăm sóc bản thân và em bé.

Nhóm tuổi dưới 20 chiếm 4,4% và cần được chú ý đặc biệt do sự phát triển thể chất và sinh lý chưa hoàn thiện, đặc biệt là khả năng mang thai Tình trạng mang thai ngoài ý muốn, chưa kết hôn, nghề nghiệp không ổn định, và nhận thức chưa đầy đủ về chăm sóc bản thân và sơ sinh cũng là những yếu tố ảnh hưởng Trong khi đó, nhóm sản phụ trên 35 tuổi chiếm 17,3%, có nguy cơ cao trong thai kỳ, dẫn đến tỷ lệ mổ lấy thai gia tăng và hạn chế khả năng phục hồi thể chất và tinh thần sau sinh.

Nghề nghiệp có tác động đáng kể đến khả năng mang thai và sinh đẻ, đặc biệt là ở nhóm sản phụ là cán bộ và nội trợ Do đặc thù công việc, họ thường ít vận động hơn, và môi trường làm việc cũng góp phần ảnh hưởng đến quá trình sinh đẻ của họ.

Kết quả từ biểu đồ 3.2 cho thấy tỷ lệ sản phụ thuộc nhóm nghề cán bộ cao nhất với 40,5%, tiếp theo là nhóm nội trợ với 34,4%, trong khi nhóm công nhân và làm ruộng chỉ chiếm 14,0% và 11,1% Nghiên cứu của Nguyễn Hải Chiến và Đỗ Quang Mai cũng chỉ ra rằng nghề nghiệp ảnh hưởng đến hiểu biết của thai phụ về thai nghén, sinh đẻ và chăm sóc sức khỏe sinh sản, đặc biệt là trong giai đoạn hậu sản Do đó, việc tư vấn và cung cấp kiến thức chăm sóc cho sản phụ và sơ sinh cần chú ý đến đặc điểm nghề nghiệp để đạt hiệu quả tối ưu.

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sản phụ sinh mổ ở thành phố Thanh Hoá chiếm 37,5%, trong khi vùng đồng bằng và vùng trung du, miền núi, ven biển cũng chiếm 37,5% và 25,0% tương ứng Sự chuyển giao phẫu thuật mổ lấy thai tới các Bệnh viện tuyến huyện và chính sách thông tuyến bảo hiểm y tế đã làm giảm sự khác biệt địa lý trong phân bố sản phụ Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng sự khác nhau về địa lý vẫn ảnh hưởng đến hiểu biết của sản phụ về chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh trong thời kỳ hậu phẫu.

3.1.4 Trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu

Theo biểu đồ 3.3, nhóm đối tượng nghiên cứu có trình độ học vấn từ Đại học – Cao đẳng chiếm 48,3%, trong khi trình độ trung học phổ thông chiếm 22,2% và trình độ trung học cơ sở chỉ chiếm 13,4% Điều này cho thấy có một tỷ lệ cao các bà mẹ có trình độ học vấn tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tư vấn và giáo dục về kiến thức và kỹ năng chăm sóc sau sinh Tuy nhiên, cần đặc biệt chú ý đến nhóm sản phụ có trình độ học vấn thấp khi tiến hành tư vấn về chăm sóc sau sinh mổ.

Theo biểu đồ 3.4, 85.6% sản phụ trong nghiên cứu không theo tôn giáo, trong khi chỉ có 14.4% sản phụ theo đạo Thiên Chúa Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Mã Thị Hồng Liên [19] và phù hợp với số liệu niên giám thống kê tỉnh Thanh Hóa Tuy nhiên, hiện chưa có nghiên cứu nào chỉ ra sự ảnh hưởng của tôn giáo đến nhóm đối tượng này.

Tỷ lệ mổ lấy thai hiện nay là 43%, tuy nhiên, các phong tục tập quán và tôn giáo có thể tác động đến nhận thức và hành vi chăm sóc cho sản phụ và sơ sinh sau khi sinh.

Nghiên cứu này tập trung vào các sản phụ sinh mổ lần đầu, với kết quả cho thấy tỷ lệ sản phụ sinh mổ con so đạt 62,7%, tương đồng với nghiên cứu của Đỗ Quang Mai.

Sản phụ mang thai lần đầu sinh mổ có nguy cơ cao hơn trong các lần mang thai tiếp theo, đặc biệt nếu không được chăm sóc sau mổ đúng cách, điều này có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của cả mẹ và thai nhi Theo thống kê, chỉ có 31,1% sản phụ đã sinh thường lần đầu, trong khi tỷ lệ sinh thường từ hai lần trở lên chỉ đạt 6,2% Do đó, những sản phụ sinh con lần đầu thường thiếu kiến thức và kinh nghiệm về chăm sóc sau sinh, vì vậy cần có sự tư vấn và hỗ trợ đặc biệt trong quá trình hồi phục hậu phẫu.

Sự hiểu biết của sản phụ về chăm sóc sau sinh mổ

3.2.1 Sự hiểu biết của sản phụ về vấn đề dinh dưỡng cho sản phụ sau sinh mổ

Sau khi mổ, sản phụ cần kiêng ăn trong vòng 6 giờ để đảm bảo sức khỏe, vì lúc này nhu động ruột hoạt động yếu, đường ruột có thể ứ trệ nhiều khí và dạ dày cũng hoạt động kém Việc ăn uống trong giai đoạn này có thể dẫn đến khó tiêu, đầy hơi và táo bón, làm tăng cảm giác mệt mỏi và kéo dài thời gian hồi phục.

Trong ngày đầu sau sinh, sản phụ chỉ nên uống nước lọc, súp và ăn cháo loãng cho đến khi có thể trung tiện, sau đó mới bắt đầu ăn thực phẩm đặc với các món mềm, lỏng, giàu dinh dưỡng và dễ tiêu hóa Sau thời gian này, các bà mẹ nên trở lại chế độ ăn uống bình thường, tăng cường thực phẩm giàu đạm và canxi, đồng thời uống nhiều nước để cung cấp đủ sữa cho con và ngăn ngừa táo bón Tình trạng táo bón và đầy hơi có thể kéo dài từ 3-5 ngày sau mổ do ảnh hưởng của thuốc tê Cần tránh các thực phẩm dễ gây tiêu chảy hoặc dị ứng, và ưu tiên thực phẩm giàu dinh dưỡng như đạm, chất sắt, cùng rau củ quả nấu chín Đặc biệt, trong quá trình hồi phục vết mổ, việc bổ sung vitamin A và B là rất quan trọng.

C (cam, quýt, bưởi cà rốt) có vai trò kiểm soát viêm nhiễm; Vitamin K và các yếu

Canxi, kẽm, sắt và đồng là những tố vi lượng quan trọng có trong trứng và sữa, góp phần chính trong quá trình cầm máu, tạo máu và làm lành vết mổ Bên cạnh đó, protein là nguyên liệu thiết yếu để hình thành tế bào mới, giúp tạo lớp da non và làm lành vết thương Để hỗ trợ quá trình này, mỗi ngày cần cung cấp khoảng 200g thực phẩm giàu protein như thịt, cá, sữa và đậu cho cơ thể.

Dinh dưỡng cho sản phụ sau sinh đóng vai trò quan trọng trong việc hồi phục sức khỏe và sản xuất sữa cho con bú, đặc biệt là đối với những sản phụ sinh mổ.

Trước đây, việc chăm sóc sản phụ sau sinh mổ thường yêu cầu phải chờ nhu động ruột trở lại mới được cho ăn, chỉ sau khi trung tiện Tuy nhiên, hiện nay quan điểm đã thay đổi, cho phép cho sản phụ ăn sớm để kích thích ruột hoạt động và trung tiện nhanh hơn Thời điểm lý tưởng để cho sản phụ ăn là sau 6 giờ phẫu thuật và uống nước sau 1-2 giờ Mặc dù điều này có vẻ đơn giản, nhưng không phải ai cũng biết và thực hiện do thói quen khó thay đổi của cả người chăm sóc lẫn sản phụ.

Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có 16,1% sản phụ cho rằng thời gian bắt đầu ăn sau mổ lấy thai là 6 giờ, thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của Mã Thị Hồng Liên (57,2%) Tỷ lệ sản phụ cho ăn sau mổ 12 giờ là 23,9% và 35,6% cho rằng nên ăn sau khi trung tiện Đáng chú ý, 24,4% sản phụ không biết khi nào nên bắt đầu ăn sau mổ, cao hơn so với các nghiên cứu của Trịnh Hữu Vách và Mã Thị Hồng Liên Sự khác biệt này có thể được giải thích bởi địa điểm nghiên cứu và chất lượng chăm sóc y tế.

Theo biểu đồ 3.5, chỉ có 48,3% sản phụ trong nghiên cứu cho rằng nên ăn cháo thịt khi bắt đầu ăn lần đầu sau sinh mổ, trong khi 36,7% chọn ăn cháo trắng và 2,3% không biết Điều này cho thấy kiến thức về lựa chọn thức ăn sau sinh mổ của sản phụ còn hạn chế, thấp hơn so với nghiên cứu của Mã Thị Hồng Liên Ngoài ra, phong tục tập quán cũng ảnh hưởng đến chế độ ăn kiêng sau sinh, với 48,3% sản phụ cho rằng nên ăn đầy đủ chất dinh dưỡng sau mổ và 93,3% khuyến cáo kiêng các chất kích thích như thức ăn cay.

45 nóng, bia, rượu… kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Vương Tiến Hòa và

Lê Thị Vân [18] là 34% và Mã Thị Hồng Liên 86% [19]

Tỷ lệ sản phụ tin rằng nên ăn khô, hạn chế nước, kiêng đồ tanh và đồ nếp lần lượt đạt 41,7%, 89,5% và 35,0% Kiến thức về chế độ ăn kiêng của họ chủ yếu được truyền miệng từ người thân và dân gian, với quan niệm rằng uống nhiều nước có thể dẫn đến tiểu nhiều và són đái; ăn đồ tanh như tôm, cua, cá có thể gây rối loạn tiêu hóa; trong khi đó, việc tiêu thụ đồ nếp, thịt gà và rau muống có thể làm chậm quá trình lành vết mổ, dễ gây mưng mủ và để lại sẹo xấu.

Kiến thức dinh dưỡng không hợp lý cho bà mẹ sau sinh và sau mổ là vấn đề phổ biến, như đã chỉ ra trong nghiên cứu này và các nghiên cứu so sánh khác Do đó, cán bộ y tế cần tích cực tuyên truyền và tư vấn về chế độ dinh dưỡng hợp lý, nhấn mạnh lợi ích của nó đối với sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh, cả trong ngắn hạn và dài hạn.

Sau khi mổ, sản phụ cần bổ sung kịp thời và đầy đủ các dưỡng chất để phục hồi, vì cuộc phẫu thuật có thể gây mất máu, mệt mỏi, căng thẳng và đau đớn Việc cung cấp dinh dưỡng và calori không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ mà còn quyết định đến số lượng và chất lượng sữa mẹ Do đó, chế độ ăn uống hợp lý là rất quan trọng cho sức khỏe của cả mẹ và bé Sản phụ nên được cho uống nước sớm sau mổ trong vòng 1-2 giờ và ăn sớm sau mổ khoảng 6 giờ.

Sau khi sinh, sản phụ nên bắt đầu với thức ăn nhẹ như cháo thịt nạc loãng hoặc súp, và tránh các thực phẩm gây sinh hơi như nước có ga, đồ ngọt, nước hoa quả và bánh ngọt cho đến khi có thể trung tiện Trong những ngày tiếp theo, cần cung cấp chế độ ăn đa dạng, bao gồm thịt (lợn, bò, gà), hải sản (cua, tôm, cá), rau quả giàu vitamin (rau ngót, súp lơ, cam, quýt, đu đủ, nho) cùng với sữa và các sản phẩm từ sữa Đồng thời, sản phụ cũng nên kiêng các chất kích thích như rượu, bia, chè, thuốc lá và hạn chế thực phẩm cay, nóng như hành, ớt, tỏi, cũng như thức ăn sống, lạnh để bảo vệ dạ dày và hệ tiêu hóa, đồng thời ảnh hưởng tích cực đến chất lượng sữa mẹ.

3.2.2 Sự hiểu biết của sản phụ về vận động sau mổ lấy thai

Sau sinh, sản phụ không nên nằm nhiều trên giường dù việc di chuyển có thể gây đau đớn Ngay khi ống thông tiểu được gỡ bỏ, sản phụ có thể bắt đầu tập đi bộ Trước đó, các mẹ vẫn có thể cử động tay chân nhẹ nhàng hoặc ngồi dậy Việc lười vận động sau sinh mổ có thể làm chậm hồi phục nhu động ruột, dẫn đến táo bón khó chịu và tăng nguy cơ hình thành cục máu đông ở chân, tay, cũng như viêm phổi sau phẫu thuật do nằm một chỗ Đi bộ ngắn giúp phục hồi chức năng cơ thể nhanh hơn và giảm nguy cơ mắc biến chứng sau phẫu thuật như dính ruột và viêm tắc tĩnh mạch.

Sau khi sinh mổ, các sản phụ cần nghỉ ngơi để phục hồi năng lượng, đặc biệt là những người đã trải qua giai đoạn chuyển dạ khó khăn hoặc mổ mất nhiều máu, nhằm tránh nguy cơ té ngã hoặc ngất xỉu Mặc dù việc vận động và tập thể dục rất có lợi cho quá trình hồi phục sau sinh, nhưng các mẹ sinh mổ nên chờ từ 4-6 tuần sau sinh mới bắt đầu tập luyện trở lại.

Tư thế nằm khi phục hồi sau phẫu thuật là rất quan trọng Nên nằm thẳng và sử dụng gối, nhưng tốt nhất là nằm nghiêng đầu sang một bên Sử dụng chăn để đệm sau lưng, tạo góc 20-30 độ giữa cơ thể và giường nhằm giảm va chạm đến vết mổ Điều này không chỉ giúp giảm đau khi di chuyển mà còn mang lại cảm giác dễ chịu hơn cho sản phụ.

Kết quả nghiên cứu tại bảng 3.7 chỉ có 22,2 % sản phụ biết nên ngồi dậy sau mổ 12 giờ, thấp hơn kết quả nghiên cứu của Mã Thị Hồng Liên (2015) [19] là 78,8%

Sản phụ thường gặp khó khăn trong việc ngồi dậy sau mổ do đau đớn, thiếu kiến thức về lợi ích của việc này trong vòng 6 – 12 giờ sau phẫu thuật, và không nhận được sự khuyến khích tích cực từ nhân viên y tế và người thân Theo nghiên cứu, 95% sản phụ cần sự hỗ trợ để ngồi dậy sau sinh mổ, trong đó 95% nhận sự hỗ trợ từ gia đình, chỉ 4,5% được cán bộ y tế hỗ trợ, và chỉ có 5% tự ngồi dậy Do đó, việc tư vấn và hỗ trợ từ cán bộ y tế và người nhà là rất cần thiết cho sản phụ.

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao kiến thức chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh của sản phụ sinh mổ lần một tại Bệnh viện phụ sản Thanh Hóa

sơ sinh của sản phụ sinh mổ lần một tại Bệnh viện phụ sản Thanh Hóa

Để nâng cao sức khỏe sinh sản trong cộng đồng và bệnh viện, cần tăng cường tuyên truyền giáo dục với các chủ đề như lớp tiền sản cho cha mẹ, chăm sóc thai nghén và đặc biệt là chăm sóc sau sinh Đồng thời, chú trọng tư vấn sức khỏe từ nhân viên y tế cho sản phụ trong và sau thời gian nằm viện Cần đẩy mạnh truyền thông đa phương tiện để nâng cao nhận thức của sản phụ và gia đình về tình trạng sức khỏe, khuyến khích họ thực hiện các yêu cầu chuyên môn như chế độ dinh dưỡng hợp lý, tập vận động sớm, nuôi con bằng sữa mẹ, vệ sinh sau sinh mổ và các biện pháp tránh thai cho phụ nữ sau sinh.

Xây dựng kế hoạch đào tạo lại và đào tạo liên tục cho nhân viên y tế là rất quan trọng để nâng cao kiến thức và kỹ năng tư vấn giáo dục sức khỏe Đặc biệt, việc này cần tập trung vào chăm sóc sức khỏe cho sản phụ trước và sau sinh mổ, nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ y tế và sự an toàn cho bệnh nhân.

Cần thực hiện nghiên cứu ứng dụng về chăm sóc thiết yếu cho bà mẹ và sơ sinh ngay sau khi sinh thường và sinh mổ tại Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa, theo các khuyến cáo hiện hành.

Vào năm 2014, Tổ Chức Y tế Thế giới đã ban hành quy trình chuyên môn chăm sóc thiết yếu cho bà mẹ và trẻ sơ sinh trong và ngay sau khi sinh, theo Quyết định số 4673/QĐ-BYT của Bộ Y tế Điều này nhằm giảm thiểu rủi ro cho bà mẹ và đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và bé trong quá trình sinh nở.

60 và trẻ sơ sinh; nhưng trên thực tế lâm sàng vẫn còn một số biến cố có hại đến sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh

Ngày đăng: 01/04/2022, 14:00

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1.Hyattsville M.D (2004), “Prelimanary birth for 2004: Infant and Marternal health”, National center for health statistics,34(1), pp.75-76 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Prelimanary birth for 2004: Infant and Marternal health
Tác giả: Hyattsville M.D
Nhà XB: National center for health statistics
Năm: 2004
2. Vương Tiến Hoà (2006), Nghiên cứu chỉ định mổ lấy thai ở người đẻ con so tại bệnh viện Phụ sản trung ương năm 2005, nghiên cứu y học. Số 5: 79-84 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu chỉ định mổ lấy thai ở người đẻ con so tại bệnh viện Phụ sản trung ương năm 2005
Tác giả: Vương Tiến Hoà
Nhà XB: nghiên cứu y học
Năm: 2006
3.WHO (2010), The Global Numbers and Costs of Additionally Needed and Unnecessary Caesarean Sections Performed per Year: Overuse as a Barrier to U niversal Coverage.World Health Report (2010), August Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Global Numbers and Costs of Additionally Needed and Unnecessary Caesarean Sections Performed per Year: Overuse as a Barrier to Universal Coverage
Tác giả: WHO
Nhà XB: World Health Report
Năm: 2010
5. Trường Đại học Y Hà Nội – Bộ Môn Sản, (2002), Bài giảng sản phụkhoa, tập 1, Nhà xuất bản y học, Tr. 153 – 155, 173,180 – 183, 210 – 211 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài giảng sản phụkhoa, tập 1
Tác giả: Trường Đại học Y Hà Nội – Bộ Môn Sản
Nhà XB: Nhà xuất bản y học
Năm: 2002
6. Bộ Y tế, vụ khoa học và đào tạo (2005),“Chăm sóc bà mẹ sau đẻ”Tài liệu đào tạo hộ sinh trung học, Nhà xuất bản Y học, tr. 39 – 44 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chăm sóc bà mẹ sau đẻ
Tác giả: Bộ Y tế, vụ khoa học và đào tạo
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
Năm: 2005
7. Khoa nghiên cứu chính sách y tế (2009), “Điều tra tử vong mẹ và tử vong sơ sinh tại Việt Nam”, Viện chiến lược và chăm sóc y tế, tạp chí y học số 12, tr. 17 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều tra tử vong mẹ và tử vong sơ sinh tại Việt Nam
Nhà XB: Viện chiến lược và chăm sóc y tế
Năm: 2009
9. UNPA (2007), survery of the knowledge and Practic of Mothers after birth Safe Motherhood Sweden. February 23, pp. 103-105 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Survey of the Knowledge and Practice of Mothers after Birth Safe Motherhood
Tác giả: UNPA
Nhà XB: Sweden
Năm: 2007
10. Trần Thị Ngọc Hồi (2005), Nghiên cứu kiến thức – thực hành chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em trước, trong và sau sinh tại 3 xã huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên, Luận văn bác sĩ đa khoa, trường Đại học Y Thái Nguyên, trang 35, 36 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu kiến thức – thực hành chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em trước, trong và sau sinh tại 3 xã huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên
Tác giả: Trần Thị Ngọc Hồi
Nhà XB: trường Đại học Y Thái Nguyên
Năm: 2005
11.Trịnh Hữu Vách (2009), Nghiên cứu về kiến thức, thực hành của bà mẹ sau đẻ tại 14 tỉnh Tây Nguyên,Tạp chí Y học thực hành 2010, số 34, tr. 14 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu về kiến thức, thực hành của bà mẹ sau đẻ tại 14 tỉnh Tây Nguyên
Tác giả: Trịnh Hữu Vách
Nhà XB: Tạp chí Y học thực hành
Năm: 2009
12. Phan Trường Duyệt (2000), Phòng chống năm tai biến sản khoa, Nhà xuất bản y học, trang 10-12, 25 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phòng chống năm tai biến sản khoa
Tác giả: Phan Trường Duyệt
Nhà XB: Nhà xuất bản y học
Năm: 2000
13. Kimberly Smith (2004), Has said on postnatal care in Mali .Gynecology journal America. Obstet Gynecol:111;304–308 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Has said on postnatal care in Mali
Tác giả: Kimberly Smith
Nhà XB: Gynecology journal America
Năm: 2004
14. Zora Sharafi (2013), Has said on Postntal care in the Iran,Gynecology Iran, May12,2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Has said on Postntal care in the Iran
Tác giả: Zora Sharafi
Nhà XB: Gynecology Iran
Năm: 2013
15. GS.Alexxandere Dumont (2015), Chăm sóc toàn cầu sức khỏe bà mẹ và trẻ em và xu hướng của mổ lấy thai trên thế giới, Đại học Y Pari Decartes – Pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chăm sóc toàn cầu sức khỏe bà mẹ và trẻ em và xu hướng của mổ lấy thai trên thế giới
Tác giả: GS.Alexxandere Dumont
Nhà XB: Đại học Y Pari Decartes – Pháp
Năm: 2015
17.Tôn thị Anh Tú ( 2011), Kiến thức,thái độ và thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ có con dưới 6 tháng tuổi tại Bệnh viện Nhi Đồng I từ 6/2009 – 4/2010, Tạp chí Y học Thành Phố Hồ Chí Minh, tập XV, số 1, trang 27-32 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến thức,thái độ và thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ có con dưới 6 tháng tuổi tại Bệnh viện Nhi Đồng I từ 6/2009 – 4/2010
Tác giả: Tôn thị Anh Tú
Nhà XB: Tạp chí Y học Thành Phố Hồ Chí Minh
Năm: 2011
18. Vương Tiến Hòa – Lê Thị Vân (2003), Thực trạng công tác chăm sóc sau sinh tại Chí Linh – Hải Dương,Nhà xuất bản Y học ( 2004), trang 22, 23 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng công tác chăm sóc sau sinh tại Chí Linh – Hải Dương
Tác giả: Vương Tiến Hòa, Lê Thị Vân
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
Năm: 2003
19. Mã Thị Hồng Liên (2015), “ Nghiên cứu thực trạng kiến thức, thực hành về chăm sóc sản phụ sau mổ lấy thai tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2015” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu thực trạng kiến thức, thực hành về chăm sóc sản phụ sau mổ lấy thai tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2015
Tác giả: Mã Thị Hồng Liên
Năm: 2015
22. Đỗ Quang Mai (2012), “ Nghiên cứu thực trạng mổ lấy thai ở người đẻ con so tại bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa năm 2012” – Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu thực trạng mổ lấy thai ở người đẻ con so tại bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa năm 2012
Tác giả: Đỗ Quang Mai
Năm: 2012
23. Phạm Phương Lan (2011), “ Kiến thức, thực hành, và nhu cầu chăm sóc sau sinh của các bà mẹ đến sinh con tại Bệnh viện Phụ sản trung ương và Bệnh viện đa khoa Ba Vì”, Tạp chí Y học dự phòng, tập XXI, số 7 (125), Tr.165-174 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến thức, thực hành, và nhu cầu chăm sóc sau sinh của các bà mẹ đến sinh con tại Bệnh viện Phụ sản trung ương và Bệnh viện đa khoa Ba Vì
Tác giả: Phạm Phương Lan
Nhà XB: Tạp chí Y học dự phòng
Năm: 2011
24. Rathore AS, Ramesh P. (1994), "Breast feeding practices among rural mothers of Delhi". Nurs J India.May 85(5), pp. 103-4 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Breast feeding practices among rural mothers of Delhi
Tác giả: Rathore AS, Ramesh P
Nhà XB: Nurs J India
Năm: 1994
8. Committee on Obstetric Pratice (2013), Cesarean delivery on maternal request. Committee Opinion No. 559. ACOG and Gynecologists. Obstet Gynecol:121;904–908 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w