Phân quyền

Một phần của tài liệu BÀI GIẢNG QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP (Trang 65)

3.2.2.1. Khái niệm

Quyền hành là năng lực quyết định, chỉ huy, cưỡng bức, khen thưởng, trừng phạt hay ra lệnh đối với cấp dưới và trông đợi sự tiến hành của họ. Tuy nhiên chỉ gọi là quyền hành khi nó là một quyền hành hợp pháp, chính đáng.

Chương 3 – Chỉ huy trong quản trị doanh nghiệp

61 Phân quyền là quyền hành trong quản trị được phân cho từng cấp, từng người, tuỳ

chức vị, địa vị, khả năng và kinh nghiệm thực tế. Mục đích của việc phân quyền quản trị chủ

yếu là nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức đáp ứng kịp thời, nhanh chóng và phù hợp với những yêu cầu của tình hình.

3.2.2.2.Lợi ích của việc phân quyền

Cho phép nhà quản trị cấp cao có nhiều thời gian hơn cho các công việc quan trọng như phát triển chiến lược và các kế hoạch của tổ chức. Các nhà quản trị cấp thấp hơn sẽ giải

quyết các công việc sự vụ hằng ngày, và những vấn đề thường xuyên, quen thuộc . Nếu không

phân quyền, mọi việc đều phải đưa cho nhà quản trị cấp cao nhất quyết định thì sẽ chậm trễ và có thể không đáp ứng đúng với đòi hỏi của thực tế. Bởi vì cấp dưới thường gần các hoạt động tác nghiệp cụ thể hơn những nhà quản trị cấp cao nên họ có thể nắm bắt tốt hơn tất cả các sự việc. Sự hiểu biết này làm cho họ có khả năng đưa ra các quyết định nhanh chóng. Khoản thời gian đáng giá có thể bị mất khi cấp dưới bị kiểm soát mọi thứ bởi cấp trên.

Việc phân quyền rất cần thiết khi doanh nghiệp có nhiều đơn vị ở rải rác khắp nơi, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh riêng biệt theo yêu cầu của địa bàn.

Phát triển khả năng lự quản lý của những nhà quản trị cấp dưới. Theo Jack Welch - chủ tịch của GE, thì phân chia quyền hành sẽ giúp chuẩn bị các nhà quản trị cho các vị trí cao hơn, cần các kỹ năng phán quyết tốt hơn và gia tăng trách nhiệm.

Phân tán quyền lực nuôi dưỡng một bầu không khí định hướng mục tiêu. lành mạnh trong nhân viên.

Không có một sự tập trung hay phân quyền tuyệt đối trong tổ chức. Không một nhà quản trị nào có thể đưa ra tất cả các quyết định, thậm chí trong một nơi mà sự tập trung hoá rất cao. Sự phân quyền tuyệt đổi trong tổ chức sẽ không cần những nhà quản trị cấp cơ sở và cấp trung gian. Vì thế, luôn tồn tại trong tổ chức một mức độ nào đó của tập trung và phân chia quyền hành. Trong hầu hết các tổ chức một vài nhiệm vụ được tập trung (như hệ thống tiền lương, mua sắm, các chính sách nguồn nhân lực) và những nhiệm vụ khác thì phân tán (như marketing và sản phẩm).

3.2.2.3. Những chú ý khi phân quyền

Phân quyền là một tất yếu. Người chỉ huy không thể làm tất cả mọi việc. Nói một cách khác họ không thể bao biện, ôm đồm làm thay công việc của người khác, của cấp dưới.

Phân quyền không có nghĩa là chia quyền, chia sẻ quyền lực đến mức người lãnh đạo cấp cao trong tổ chức không biết cấp dưới có những quyết định quan trọng gì. Vì nếu vậy người lãnh đạo, chỉ huy không còn là người lãnh đạo chỉ huy nữa.

Phân quyền phải đi đôi với việc xác định rõ mối quan hệ giữa: nhiệm vụ và quyền hạn, trách nhiệm và quyền lợi. Mối quan hệ này phải được quy định rõ ràng

3.2.2.4. Những yếu tố xác định mức độ phân quyền

Chương 3 – Chỉ huy trong quản trị doanh nghiệp

62 - Giá trị của quyết định càng lớn thì càng đòi hỏi được ban hành ở cấp cao (giá trị về kinh tế, tài chính, uy tín...)

- Nhu cầu thống nhất trong chính sách: nếu không cần thống nhất thì cấp dưới linh động, tức phân quyền mạnh ngược lại làm phân quyền giảm và gia tăng tập quyền.

- Quy mô doanh nghiệp càng lớn, quyết định cần ban ra càng nhiều và các cương vị

phải đặt ra càng nhiều, thì việc phối hợp chúng càng phức tạp.

Trong các tổ chức có quy mô lớn, tầm quan trọng của sự nhất trí theo chiều ngang

cùng với sự nhất trí theo chiều dọc. Do đó phải phân quyền cho những bộ phận cần thiết và có thể.

- Triết lý quản trị của lãnh đạo và lịch sử phát triển của doanh nghiệp. - Trình độ các nhà quản trị cấp cơ sở.

- Cơ chế kiểm soát

Một phần của tài liệu BÀI GIẢNG QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP (Trang 65)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(165 trang)