Hành vi cạnh tranh và hợp tác

Một phần của tài liệu BÀI GIẢNG QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP (Trang 113)

Tương tác giữa các nhóm và tương tác giữa các thành viên trong nhóm là một chủ đề được chú ý nhiều trong những năm gần đây. Những tương tác này có ảnh hưởng to lớn đến sự tồn tại và hiệu quả hoạt động của tổ chức. Các cá nhân và các nhóm phụ thuộc lẫn nhau về thông tin, sự hỗ trợ, tư vấn, nỗ lực hợp tác, và sự phụ thuộc lẫn nhau này có thể dẫn tới quan hệ cạnh tranh hoặc quan hệ hợp tác. 4 loại tương tác thường gặp là: sự vô tư; sự hợp tác; sự cạnh tranh và sự xung đột.

- Sự vô tư: Hành vi được động viên bằng sự hướng tới những người khác được gọi là sự vô tư. Sự vô tư luôn luôn bao gồm ít nhất những chi phí của người giúp đỡ như thể lực,

Chương 4 – Hành vi tổ chức

109 thần kinh, hoặc các nỗ lực xúc cảm và với các chi phí này người giúp đỡ không màng tới sự đền bù.

- Sự hợp tác: Sự hợp tác là cùng nhau làm việc vì mục tiêu chung hoặc hai bên cùng có lợi. Sự hợp tác và sự vô tư thường hay bị nhầm lẫn. Điểm khác biệt chủ yếu ở đây là kết cục đối với người giúp đỡ. Khi bạn giúp đỡ ai đó không vì lợi ích của bạn – hành vi đó thể hiện sự hợp tác. Trong tình huống hợp tác, cả hai phía cùng có lợi từ nỗ lực chung của họ.

- Sự cạnh tranh: Cạnh tranh xảy ra khi hai hay nhiều cá nhân hoặc nhóm theo đuổi mục tiêu này có thể đạt tới chỉ bởi một phía (cá nhân hoặc nhóm). Những nguồn lực giới hạn hoặc cố định là một trong những đặc tính cơ bản của tình huống cạnh tranh.

- Sự xung đột: Xung đột xảy ra khi một bên nhận thức rằng phía bên kia phá hủy, chống lại nỗ lực của họ trong việc đạt tới kết quả mong muốn. Xung đột có thể xảy ra giữa các nhóm, trong nhóm và giữa các cá nhân. Xung đột xảy ra khi hai nhóm có những mục tiêu mà chúng loại trừ lẫn nhau – bên này đạt được thì bên kia không đạt được và bị thiệt hại; vì vậy sự tương tác của họ được thiết kế để đánh bại, kìm giữ hoặc gây thiệt hại cho phía bên kia

Tác động của cạnh tranh và hợp tác:

+ Cạnh tranh làm tăng sự khuấy động, sự thức tỉnh, và sự động viên – điều này làm năng suất tăng lên. Nhưng người lao động cạnh tranh trong việc kết thúc công việc của họ trước tiên, hoặc để đạt được doanh số cao nhất và như thế họ sẽ đạt tới năng suất cao hơn. Sự nhiệt tình gắn liền với những cuộc thi luôn làm tăng mức độ thực hiện nhiệm vụ. Như là một nguyên tắc, cạnh tranh làm tăng năng suất.

Mặc dù một số nghiên cứu ban đầu chỉ ra rằng cạnh tranh trên các nhiệm vụ đơn giản tạo ra mức độ cao hơn về động viên và tạo ra việc thực hiện nhiệm vụ tốt hơn. Song các nghiên cứu khác lại cho thấy cạnh tranh làm tổn hại đến các quá trình nhóm và phá hủy quan hệ hợp tác – điều cần thiết cho việc thực hiện tốt công việc. Sự bất đồng trong kết quả của các nghiên cứu đã được giải thích bởi việc xem xét mức độ phụ thuộc lẫn nhau của người lao động trong mỗi nghiên cứu. Cạnh tranh hoàn thiện là khi người lao động thực hiện các nhiệm vụ độc lập và không đòi hỏi sự ràng buộc với người lao động là phải cùng nhau làm việc. Tuy nhiên, khi các nhiệm vụ phụ thuộc lẫn nhau, đòi hỏi nỗ lực hợp tác, cạnh tranh dẫn đến việc thực hiện nhiệm vụ kém hơn. Vì thế, cạnh tranh làm tăng hay giảm mức độ thực hiện nhiệm vụ là phụ thuộc vào bản chất, nhiệm vụ của nhóm.

Hướng tới người khác

Hướng tới lợi ích cá nhân

Vị tha Hợp tác Cạnh tranh Xung đột

Hình 4.3. Các hành vi trong doanh nghiệp

Chương 4 – Hành vi tổ chức

110

Cấu trúc phần thưởng Bản chất nhiệm vụ Ảnh hưởng đến năng

suất

Cạnh tranh

Nhiệm vụ độc lập Tăng năng suất

Nhiệm vụ phụ thuộc Giảm năng suất

Hợp tác

Nhiệm vụ độc lập Năng suất không đổi

Nhiệm vụ phụ thuộc Tăng năng suất

Hình 4.4. Ảnh hưởng của nhiệm vụ đối với tác động của cạnh trạnh và hợp tác

Cạnh tranh nói chung là tăng sự động viên và tăng năng suất khi con người làm việc một mình với nhiệm vụ độc lập. Nhưng khi nhiệm vụ mà phụ thuộc lẫn nhau và đòi hỏi các nỗ lực hợp tác giữa các cá nhân, thì phần thưởng phải hướng vào việc thưởng cho sự hợp tác. Hệ thống phần thưởng phân biệt tạo ra quan hệ cạnh tranh sẽ không phù hợp với những nhiệm vụ phụ thuộc lẫn nhau vì nó tạo ra các hành vi cản trở việc thực hiện tốt nhiệm vụ.

Cạnh tranh có xu hướng phá hủy quan hệ qua lại giữa các cá nhân bằng việc gây ra cảm giác đối kháng, không tin tưởng và không thích người khác.

Một số xung đột bao gồm sự kết hợp giữa cạnh tranh và hợp tác. Hầu hết các hoạt động thể thao là thuộc dạng này. Các bên phải hợp tác với nhau trong việc đồng ý thi đấu, quyết định địa điểm và thời gian, thống nhất với nhau về luật lệ nếu không có sự hợp tác này trận đấu không thể xảy ra. Đồng thời, các bên cạnh tranh với nhau để xác định người thắng cuộc.

Một trong những yếu tố chủ yếu hướng tới kết quả trong điều kiện cạnh tranh làm bạn sẽ thắng hay thua. Thắng cuộc là hạnh phúc, các phần thưởng nhận được từ sự thắng cuộc không chỉ là các giải thưởng, tiền, sự yêu mến, nổi tiếng (những phần thưởng từ bên ngoài) mà còn là sự xúc động, sự phấn chấn, sự hoan hỉ…(những phần thưởng bên trong).

Tóm lại, tác động của cạnh tranh đối với kết quả mong muốn được xác định chủ yếu bởi những kết cục của điều kiện cạnh tranh. Trong những điều kiện cạnh tranh thể hiện một phức hợp pha trộn giữa phần thưởng và sự trừng phạt, thì điều này gây nên sự khó khăn cho chúng ta trong dự đoán kết cục cuối cùng. Mặc dù thắng cuộc thì vui, thua thì buồn, xong có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới kết cục. Ví dụ, nếu một đơn vị cạnh tranh một cách khốc liệt để xác định thành viên nào sẽ được đề cử làm lãnh đạo của đơn vị, cả người thắng cuộc và người thua cuộc đều có thể bị ảnh hưởng khi cạnh tranh phá hủy quan hệ qua lại giữa các cá nhân trong nhóm. Nhưng trái lại, tại các cuộc thi Olympic và đặc biệt được đại diện cho quốc

Chương 4 – Hành vi tổ chức

111 gia sẽ tạo ra sự thỏa mãn hơn là cảm giác của sự thất bại. Vì thế, doanh nghiệp phải hướng hành vi cạnh tranh kết hợp với hợp tác.

Một phần của tài liệu BÀI GIẢNG QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP (Trang 113)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(165 trang)