Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG
2.2. Các quy định của pháp luật về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
2.2.3. Trường hợp hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia
Trong quá trình giao hết hợp đồng, một trong những tiêu chí quan trọng nhất đó là nguyên tắc về sự trung thực, thiện chí. Đây được coi là một trong những nguyên tắc nền tảng của việc ký kết và thực hiện hợp đồng, được ghi nhận không những trong pháp luật hợp đồng của Việt Nam mà còn được quy định trong pháp luật của nhiều nước. Giữa hành vi vi phạm hợp đồng với nguyên tắc nói trên tồn tại mối quan hệ tương hỗ. Theo đó, vi phạm hợp đồng cố ý là biểu hiện của sự không trung thực, thiện chí, khi mà bên vi phạm cố tình che giấu những đặc điểm, đặc tính hay cố tình làm sai lệch những thông tin về đối tượng của hợp đồng nhằm đạt được những mục đích của mình. Tuy nhiên, không phải bất kể trường hợp nào bên vi phạm cũng là bên có lỗi hoàn toàn đối với những vi phạm đó. Trong một số trường hợp có thể xảy ra là bên vi phạm vi phạm hợp đồng do lỗi một phần hay hoàn toàn từ phía bên bị vi phạm.
Theo pháp luật của Việt Nam và pháp luật của các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa sử dụng đã chỉ ra rằng, lỗi là một trong
52
những căn cứ để xác định trách nhiệm pháp lý nói chung và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng nói riêng. Trong khi đó pháp luật của các nước thuộc hệ thống pháp luật Anh - Mỹ lại không coi lỗi là một trong các yếu tố để xác định trách nhiệm hợp đồng. Sự khác biệt nói trên có lẽ là do truyền thống pháp luật, truyền thống được hình thành từ các nguồn gốc không giống nhau, từ phong tục tập quán, điều kiện kinh tế, hình thức nhà nước... đã dẫn đến những cách xác định căn cứ miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định trong hệ thống văn bản của các nước khác nhau cũng có sự khác nhau. Các văn bản pháp lý quốc tế về hợp đồng, ví dụ Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, có lẽ để hài hòa giữa hai hệ thống pháp luật nói trên, thay vì xác định bên vi phạm có lỗi hay không thì việc xác định hành vi vi phạm hợp đồng có phải là hậu quả của tình huống bất khả kháng hay không có giá trị quan trọng quyết định trong việc giải quyết những tranh chấp phát sinh khi có những vi phạm nghĩa vụ hợp đồng xảy ra.
Mặc dù vẫn có một số khác biệt về tiêu chí xác định lỗi, nhưng cách nhìn nhận và vai trò của lỗi được quy định trong pháp luật Việt Nam về cơ bản gần giống với các quy định pháp luật của các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Trong pháp luật Việt Nam lỗi do vi phạm hợp đồng được quy định tại Điều 308 Bộ luật dân sự 2005: “Người không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Có lẽ điều mà ai cũng biết, rằng khác với lỗi trong trách nhiệm hình sự (một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự là nguyên tắc suy đoán vô tội), trong trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng nói riêng lỗi của người vi phạm là lỗi mặc định (còn gọi là lỗi suy đoán), người vi phạm nghĩa vụ luôn bị coi là có lỗi nếu họ không chứng minh được rằng họ không có lỗi. Như vậy, pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của các nước
53
thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa đã có sự phân biệt rõ ràng hai hình thức lỗi: Cố ý và vô ý trong việc xác định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Tuy nhiên, trong việc xác định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thì hình thức của lỗi hoàn toàn không ảnh hưởng đến giới hạn và phạm vi của trách nhiệm, hay nói đúng hơn là không ảnh hưởng đến mức độ bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra. Nguyên tắc mà pháp luật của tất cả các nước, kể cả pháp luật Việt Nam sử dụng và tuân thủ một cách triệt để là thiệt hại phải được bồi thường đầy đủ và kịp thời. Đầy đủ ở đây có thể được hiện là bên vi phạm phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm với mức bồi thường phải tương ứng với mức độ thiệt hại, kịp thời có nghĩa là thiệt hại phải được bồi thường sớm nhất có thể nhằm khắc phục những hậu quả xảy ra hoặc có thể xảy ra do hành vi vi phạm hợp đồng gây lên.
Như đã nói ở trên, hình thức lỗi cố ý hay vô ý không ảnh hưởng đến mức độ bồi thường thiệt hại. Vậy một câu hỏi có thể được đặt ra: Việc pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa có sự phân biệt lỗi cố ý và vô ý trong việc xác định trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng nói riêng là nhằm mục đích gì và ý nghĩa pháp lý của việc phân biệt này là như thế nào?
Trường hợp miễn trách nhiệm này được quy định tại điểm c, khoản 1, điều 294 Luật thương mại năm 2005. Theo đó, nếu một bên vi phạm hợp đồng nhưng việc vi phạm đó không phải do lỗi của bên vi phạm mà là do lỗi của bên bị vi phạm thì bên vi phạm hợp đồng sẽ được miễn trách nhiệm đối với vi phạm đó. Như vậy, căn cứ để miễn trách nhiệm trong trường hợp này là phải do lỗi của bên bị vi phạm. Lỗi này có thể là hành động hoặc không hành động của bên bị vi phạm.
Ví dụ: Công ty A kí kết với công ty B hợp đồng cung cấp 1000 tấn gạo với công ty B. Theo đó, công ty A sẽ cung cấp toàn bộ những thiết bị xay sát
54
gạo cho công ty B để công ty B tiến hành xay sát gạo ngay sau khi ký hợp đồng. Và công ty B phải cung cấp 1000 tấn gạo cho công ty A sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày ký hợp đồng. Tuy nhiên, sau khi ký hợp đồng, công ty A đã giao máy xay cho công ty B chậm 10 ngày. Điều này dẫn đến việc công ty B không thể sát gạo cho công ty A kịp thời và không thể giao đúng tiến độ được quy định trong hợp đồng. Trong trường hợp này, nếu như trong hợp đồng không có thỏa thuận khác về việc chậm giao vật liệu và việc chậm giao vật liệu của công ty A không phải do bất khả kháng hoặc do quyết định của cơ quan có thẩm quyền thì xem như công ty A đã có lỗi khiến cho công ty B không thể thực hiện đúng hợp đồng nên công ty B được miễn trách nhiệm.
Ngoài ra, điều 80 công ước viên 1980 cũng có quy định tương tự: “một bên không được viện dẫn một sự không thực hiện nghĩa vụ của bên kia trong chừng mực mà sự không thực hiện nghĩa vụ đó là do những hành vi hay sơ xuất của chính họ” [6]. Như vậy, có thể thấy Luật thương mại Việt Nam năm 2005 đã đảm bảo sự tương thích với pháp luật thương mại quốc tế trong việc quy định về trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mà việc vi phạm đó hoàn toàn do lỗi của bên kia.
Tuy nhiên, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại 2005 thì bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng được miễn trừ trách nhiệm nếu tại thời điểm ký kết hợp đồng các bên có thỏa thuận về trường hợp miễn trừ đó. Có thể thấy rằng, một lần nữa pháp luật Việt Nam không có sự phân biệt hệ quả pháp lý của hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý. Đặc trưng của pháp luật hợp đồng là tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, tuy nhiên không phải mọi thỏa thuận của các bên đều cần phải được tôn trọng. Mà trong nhiều trường hợp, ví dụ, để bảo vệ trật tự công cộng, bảo vệ quyền lợi của bên yếu thế hơn, bảo vệ quyền lợi của người lương thiện, pháp luật có thể không công nhận giá trị pháp lý của một thỏa thuận nào đó của các bên. Lý giải về quy định trên,
55
tác giả cho rằng, có thể do khi soạn thảo Luật thương mại, các nhà làm luật chưa nghĩ đến những trường hợp bên vi phạm hợp đồng có thể lợi dụng sự tồn tại của thỏa thuận miễn trừ để không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của mình.
Điều này chính là hành vi cố ý vi phạm hợp đồng. Do đó, cần có những sửa đổi cho phù hợp của hệ thống pháp luật Việt Nam với thực tiễn.
Nghiên cứu về quy định miễn trách nhiệm do hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia thì Điều 294 mới dự liệu miễn trách nhiệm đối với bên vi phạm hợp đồng khi “Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia” [11] mà chưa tính đến khả năng hành vi vi phạm của một bên có nguyên nhân xuất phát từ bên thứ ba, mà bên này rơi vào các trường hợp mà pháp luật quy định được miễn trách nhiệm. Mặc dù, trên thực tế các bên có thể thoả thuận về các trường hợp miễn trách nhiệm trong hợp đồng của họ. Nhưng trong trường hợp không được thoả thuận, đương nhiên bên vi phạm sẽ không được miễn trách nhiệm nếu do lỗi của bên thứ ba, mặc dù bên này rơi vào các trường hợp miễn trách nhiệm. Về vấn đề này, có vẻ như Luật thương mại 2005 cứng nhắc hơn so với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, một văn bản pháp luật điều chỉnh hợp đồng kinh tế trong không gian và thời gian của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung [7]. Tại Điều 40 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định:
Bên vi phạm hợp đồng kinh tế được xét giảm hoặc miễn hoàn toàn trách nhiệm tài sản trong các trường hợp sau đây: 1) Gặp thiên tai, địch hoạ và các trở lực khách quan khác không thể lường trước được và đã thi hành mọi biện pháp cần thiết để khắc phục; 2) Phải thi hành lệnh khẩn cấp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; 3) Do bên thứ ba vi phạm hợp đồng kinh tế với bên vi phạm nhưng bên thứ ba không phải chịu trách nhiệm tài sản trong các trường hợp quy định tại điểm 1 và điểm 2 của điều này... [21].
Quy định trên của pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã phần nào dự liệu được
56
các sự kiện có thể xảy ra sau khi các bên ký kết hợp đồng. Từ đó có hướng giải quyết những tranh chấp phát sinh một cách chính xác nhất. Tuy nhiên, tất cả các luật quy định về hợp đồng sau này như Bộ luật dân sự 1995, Luật thương mại 1997, Bộ luật dân sự 2005, Luật thương mại 2005 đã không kế thừa sự tiến bộ này mà lại loại bỏ nó ra khỏi các trường hợp miễn trách nhiệm được quy định trong luật.
Tương tự với trường hợp trên, pháp luật thương mại hiện hành nói chung và điều 294 Luật thương mại nói riêng cũng chưa dự liệu trường hợp miễn trách nhiệm do một bên uỷ quyền cho bên thứ ba thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng mà bên thứ ba này vi phạm nghĩa vụ trong một số trường hợp cụ thể. Nếu trong trường hợp CISG 1980 trở thành nguồn luật để điều chỉnh đối với hợp đồng trong một số trường hợp được áp dụng thì vấn đề này sẽ được giải quyết tại Ðiều 79 Công ước Viên. Theo quy định tại Điều 79 Công ước Viên thì, nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình do người thứ ba mà họ nhờ thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng cũng không thực hiện điều đó, thì bên ấy chỉ được miễn trách nhiệm trong trường hợp bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm chiếu theo quy định của công ước và người thứ ba cũng sẽ được miễn trách nếu các quy định của công ước được áp dụng cho họ.