Đánh giá chung cho 3 loại hình du lịch

Một phần của tài liệu Đánh giá các điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch lãnh thổ Thái Nguyên – Tuyên Quang – Bắc Kạn trên quan điểm phát triển bền vững (Trang 99 - 103)

Chương 2. ĐÁNH GIÁ TỔNG HỢP CÁC ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - TÀI NGUYÊN DU LỊCH CHO PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG LÃNH THỔ THÁI NGUYÊN – TUYÊN QUANG – BẮC KẠN

2.2. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên, tài nguyên du lịch cho phát triển du lịch

2.2.4. Đánh giá chung cho 3 loại hình du lịch

Kết quả đánh giá chung cho 3 loại hình du lịch được thực hiện dựa trên cơ sở chồng xếp các kết quả đánh giá cho từng loại hình du lịch.

Bảng 2.23. Phân cấp đánh giá mức độ thuận lợi của 3 loại hình du lịch Phân cấp đánh giá

Loại hình du lịch

Điểm đánh giá theo phân cấp đánh giá

RTL KTL TB ITL

DLTQ 4 3 2 1

DLND 4 3 2 1

DLST 4 3 2 1

Tổng điểm 12 9 6 3

Sử dụng GIS để chồng xếp 3 bản đồ đánh giá chung cho từng loại hình du lịch, tính diện tích từng mức đánh giá, kết quả đánh giá cho 3 loại hình du lịch trong lãnh thổ nghiên cứu như sau:

Khu vực được đánh giá RTL có diện tích: 764,5 km2, chiếm 5,3% diện tích lãnh thổ, bao gồm VQG Ba Bể (BK), một phần phía đông VQG Tam Đảo, phần lớn diện tích các KBTTN: Tát Kẻ - Bản Bung, Chạm Chu, Kim Hỷ, Phượng Hoàng Thần sa khu du lịch hồ Núi Cốc, ATK Định Hóa.

Khu vực KTL có diện tích 7534 km2, chiếm 52,7% diện tích lãnh thổ thuộc phạm vi các huyện Ba Bể, Chợ Đồn, Bạch Thông của tỉnh BK, phần lớn diện tích huyện Na Hang, Lâm Bình, Chiêm Hóa, Yên Sơn và một phần diện

tích của huyện Sơn Dương và Hàm Yên (TQ). Ở TN, chủ yếu phân bố ở huyện Võ Nhai (quanh khu bảo tồn Thần Sa), huyện Đại Từ (chân Tam Đảo và quanh hồ Núi Cốc), ngoài ra phân bố rải rác ở Định Hóa (ATK), Phú Lương và Đồng Hỷ.

Diện tích lãnh thổ được đánh giá ở mức TB cho phát triển 3 loại hình du lịch là 5837 km2, chiếm 40,8%, bao gồm phần lớn diện tích huyện Na Rì, Ngân Sơn, Pác Nặm, TP Bắc Kạn và khoảng 1/3 huyện Chợ Mới (BK); Phân bố rải rác đều khắp các huyện của tỉnh TQ, nhưng có nhiều hơn ở Sơn Dương, TP Tuyên Quang và Hàm Yên; Chiếm phần lớn diện tích các huyện, thành phố, thị xã của Thái Nguyên (trừ Võ Nhai và Đại Từ).

Khu vực ITL chiếm một diện tích nhỏ: 166,1 km2 (chiếm 1,2%) diện tích lãnh thổ nghiên cứu và chủ yếu là ở khu vực núi cao huyện Bạch Thông, Ngân Sơn, Ba Bể, Pác Nặm của BK và một phần diện tích nhỏ ở núi cao phía bắc huyện Na Hang TQ.

Từ kết quả phân tích không gian, điểm đánh giá bình quân cho từng loại hình du lịch và cho cả 3 loại hình du lịch cho thấy khu vực thuận lợi nhất cho phát triển du lịch của lãnh thổ nghiên cứu là hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc và ATK Thái Nguyên. Tuy nhiên điểm đánh giá bình quân của từng loại hình du lịch có sự khác biệt.

Các khu vực có cảnh quan đẹp, đa dạng, kết hợp với hồ và thác nước đẹp có giá trị cho phát triển DLTQ như vùng hồ Núi Cốc, hồ Ba Bể.

Điều kiện SKH người ở lãnh thổ TN – TQ – BK được đánh giá là rất và KTL cho DLND. Tài nguyên SKH của lãnh thổ thích hợp với sức khỏe con người nên có thể khai thác cho mục đích nghỉ ngơi, điều trị bệnh và phục hồi sức khỏe. Những khu vực có cảnh quan đẹp, có hồ nước, rừng cây như hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc và đặc biệt là khu vực có suối khoáng nóng như Mỹ Lâm (TQ) là những địa điểm RTL để xây dựng các khu DLND.

Hệ thống các VQG, các KBTTN ở TN – TQ – BK có giá trị đa dạng sinh học cao, gồm nhiều hệ sinh thái, nhiều loài động vật đặc hữu, quí hiếm. Đó là các nguồn tài nguyên du lịch có giá trị đặc biệt là đối với loại hình DLST, DLTQ vì vậy có thể hình thành các điểm và tuyến du lịch hấp dẫn.

Trong khai thác ĐKTN để phát triển du lịch, đối với khu vực trung du miền núi như lãnh thổ nghiên cứu thì ngoài tính chất đa dạng, độc đáo của tự nhiên, khả năng phát triển du lịch còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Cơ sở hạ tầng du lịch; Khả năng đầu tư khai thác du lịch của các nhà quản lí, điều hành du lịch; Mối quan hệ giữa phát triển du lịch với cộng đồng dân cư địa phương.

Chồng xếp cơ sở hạ tầng du lịch vào lớp dữ liệu kết quả đánh giá cho 3 loại hình du lịch của TN – TQ – BK có thể thấy:

Phần lớn các khu, điểm, tuyến du lịch đang khai thác trên địa bàn lãnh thổ đều tập trung ở nơi có mức độ tập trung của thắng cảnh tự nhiên và có cơ sở lưu trú khá hoàn chỉnh, giao thông đi lại tương đối thuận tiện. Các khu vực khác như: hồ Na Hang, thác Bản Ba, hang Phượng Hoàng – suối Mỏ Gà… có tiềm năng lớn nhưng do hệ thống giao thông chưa được nâng cấp, cơ sở lưu trú chưa được đầu tư xây dựng nên hoạt động du lịch ở đó chưa phát triển.

Tiểu kết chương 2

Trong chương 2, một số nội dung chính đã được đề cập đến như sau:

Khái quát các ĐKTN, TNDL tác động đến phát triển du lịch của lãnh thổ TN – TQ – BK.

Xác định các loại hình du lịch có tiềm năng phát triển trong khu vực nghiên cứu. Việc xác định này dựa trên cơ sở đặc điểm tài nguyên của lãnh thổ. Có thể nhận thấy lãnh thổ TN – TQ – BK có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển 3 loại hình du lịch: DLTQ, DLND, DLST.

Tiến hành đánh giá tổng hợp tự nhiên cho phát triển 3 loại hình du lịch đã lựa chọn. Luận án đã xây dựng thang đánh giá cho từng loại hình du lịch dựa trên các tiêu chí và chỉ tiêu được lựa chọn. Mỗi loại hình du lịch có mức đánh giá và trọng số riêng cho từng tiêu chí phù hợp với đặc trưng của loại hình du lịch đó. Việc xây dựng thang đánh giá cho từng loại hình du lịch vừa mang tính chất định lượng, vừa mang tính định tính và phải có sự kết hợp của nhiều phương pháp.

Xây dựng được các bản đồ đánh giá thành phần và bản đồ đánh giá chung thể hiện sự phân hóa không gian cho phát triển từng loại hình du lịch.

Kết quả nghiên cứu này có thể coi là phù hợp với thực tế lãnh thổ và có thể tin cậy được. Ngoài ra còn xem xét đánh giá các ĐKTN, TNDL dưới góc độ bền vững dựa trên những phân tích về các tác động của hoạt động kinh tế, của BĐKH đến giá trị của TNDL.

Một phần của tài liệu Đánh giá các điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch lãnh thổ Thái Nguyên – Tuyên Quang – Bắc Kạn trên quan điểm phát triển bền vững (Trang 99 - 103)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(159 trang)