Đánh giá chung về chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân Đội chi nhánh Tây Hồ

Một phần của tài liệu Improving the credit quality in military commercial joint stock bank west lake branch (Trang 78 - 83)

CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI – CHI NHÁNH TÂY HỒ

3.4. Đánh giá chung về chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân Đội chi nhánh Tây Hồ

3.4.1. Những kết quả đạt được

- Nhìn chung hoạt động tín dụng của Chi nhánh vẫn luôn đảm bảo an toàn và hiệu quả. Trong nhiều năm liền Chi nhánh không có dƣ nợ quá hạn, trong khi nợ xấu đang có xu hướng giảm dần cả về tỷ lệ lẫn số tuyệt đối. Hoạt động tín dụng vẫn luôn là hoạt động mang lại nguồn thu chủ yếu, góp phần tạo nên hiệu quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh

69

- Sau gần 10 năm thực hiện đề án tái cơ cấu lại các ngân hàng, một số chỉ tiêu cơ cấu tín dụng của Chi nhánh đã có bước chuyển dịch theo hướng thích hợp hơn như: giảm dần tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước để tăng tỷ trọng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tín dụng bán lẽ, giảm tỷ lệ nợ xấu, tăng tỷ trọng cho vay có tài sản đảm bảo.

- Chất lƣợng các sản phẩm tín dụng của Chi nhánh nhìn chung đƣợc khách hàng đánh giá khá cao, đó là nhờ vào việc áp dụng công nghệ hiện đại, xây dựng quy trình tín dụng khoa học theo xu hướng của các nước tiên tiến, đội ngủ nhân viên của Chi nhánh đều trẻ, có trình độ chuyên môn tốt, nhiệt tình trong công tác và có phong cách giao dịch lịch sự, văn minh.

3.4.2. Những mặt hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc thì CLTD của MB Tây Hồ vẫn còn có những hạn chế nhất định cần khắc phục.

- Nhờ vào tốc độ tăng trưởng nhanh của những năm trước Chi nhánh MB Tây Hồ có quy mô và thị phần tín dụng khá lớn. Nhƣng nhìn chung trong ba năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay cũng như dư nợ tín dụng của Chi nhánh vẫn còn thấp, thấp hơn cả mức tăng trưởng chung của hệ thống MB lẫn mức tăng trưởng tín dụng trên địa bàn nên đã làm cho thị phần tín dụng của Chi nhánh ngày càng thu hẹp.

Nếu như tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của toàn ngành ngân hàng trong 3 năm gần đây vào khoảng 15% - 20%, của toàn hệ thống MB vào khoảng 25%, trên địa bàn một số ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng trên 50% thì tốc độ tăng trưởng tín dụng của Chi nhánh trong 3 năm gần đây chỉ đạt mức 7% - 8%. Vì vậy Chi nhánh cần có định hướng thích hợp để vừa đảm bảo an toàn hoạt động tín dụng nhưng vẫn duy trì được mức tăng trưởng hợp lý.

- Hoạt động tín dụng của Chi nhánh vẫn đang còn tiềm ẩn nhiều rủi ro do tỷ lệ nợ nhóm 2 vẫn còn lớn.

Các khoản nợ nhóm 2 là các khoản nợ cần chú ý. Tuy chƣa đƣợc xếp vào nợ xấu nhƣng với một tỷ lệ nợ nhóm 2 rất cao (năm 2015 nợ nhóm 2 của Chi nhánh 1.813 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 67% tổng dư nợ, năm 2016 nợ nhóm 2 còn

70

1.712 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 59%) sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ tăng tỷ lệ nợ xấu mỗi khi các khách hàng nợ nhóm 2 bị chuyển về nhóm nợ có nguy cơ rủi ro cao hơn.

- Mặc dù đã có sự điều chỉnh nhƣng cơ cấu dƣ nợ tín dụng của Chi nhánh vẫn còn nhiều điểm chƣa hợp lý, nếu không sớm đƣợc điều chỉnh thì sẽ có nguy cơ dẫn đến rủi ro, thể hiện:

+ Cơ cấu cho vay theo loại tiền tệ, theo thời hạn vay chƣa phù hợp với cơ cấu nguồn vốn huy động. Trong khi nguồn vốn huy động chủ yếu là ngắn hạn thì dƣ nợ cho vay trung dài hạn lại chiếm tỷ trọng quá cao nên Chi nhánh đã phải sử dụng một lƣợng lớn nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Điều này sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro về khả năng thanh khoản.

+ Tỷ lệ dƣ nợ cho vay của 10 khách hàng lớn của Chi nhánh còn quá lớn và đang có xu hướng tăng lên làm cho hoạt động tín dụng của Chi nhánh quá phụ thuộc vào một số khách hàng lớn. Mỗi khi có sự biến động về hoạt động sản xuất kinh doanh của các khách hàng này làm thay đổi nhu cầu vay vốn, khả năng trả nợ…cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn về nhu cầu vay vốn, CLTD của Chi nhánh. Đặc biệt là trong trường hợp các khách hàng lớn này gặp khó khăn, mất khả năng trả nợ thì việc xử lý các khoản nợ này là rất khó, thậm chí còn ngoài khả năng xử lý của Chi nhánh.

- Theo kết quả thăm dò, khảo sát ý kiến khách hàng cho thấy chất lƣợng các sản phẩm tín dụng của Chi nhánh ở một số mặt, một số yếu tố vẫn còn chƣa đƣợc chú trọng nên vẫn chƣa đáp ứng đƣợc mong muốn của khách hàng; cụ thể:

+ Sự tư vấn của ngân hàng về cơ hội kinh doanh, về phương pháp quản lý tài chính cũng nhƣ sự hỗ trợ của ngân hàng giúp khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm hay tháo gỡ khó khăn, vướng mắc vẫn chưa được Chi nhánh chú trọng.

+ Sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng về số lƣợng vốn vay, thời hạn và lãi suất vay vẫn còn nhiều hạn chế. Trong đó đặc biệt là sự đáp ứng nhu cầu về thời hạn vay vốn đối với các khoản vay trung dài hạn. Trong khi các dự án đầu tƣ thường có thời gian hoạt động, thời gian thu hồi vốn khá dài (thường là từ 5 năm trở lên, thậm chí có một số dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng, du lịch có thời gian thu hồi vốn đến 20 năm) nhưng vì không thu xếp được các nguồn vốn dài hạn tương

71

ứng nên Chi nhánh đã phải sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Vì vậy Chi nhánh thường áp dụng thời hạn cho vay ngắn hơn so với nhu cầu của khách hàng. Điều đó đã làm tăng áp lực trả nợ, tạo khó khăn cho các khách hàng vay vốn trung dài hạn trong những năm đầu khi dự án mới đi vào hoạt động. Mặt khác việc áp dụng thời hạn cho vay chƣa hợp lý, chƣa phù hợp với luồng tiền của các dự án cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc trả nợ không đúng hạn, làm giảm CLTD.

Nguyên nhân

Những tồn tại trên trong hoạt động tín dụng không chỉ xuất phát từ chính bản thân ngân hàng mà nó còn liên quan tới một số vấn đề mang tính chất khách quan.

 Nguyên nhân khách quan:

Do nền kinh tế Việt Nam còn chưa có một thị trường hàng hoá hoàn thiện, do đó nhiều khi tài sản đảm bảo đƣợc đánh giá quá chênh lệch với giá trị thực tế. Ngoài ra thị trường bất động sản còn có những biến động phức tạp, thiếu sự quản lý vĩ mô, còn vướng mắc trong vấn đề pháp lý và hành chính gây ách tắc trong quá trình mua bán chuyển nhƣợng, nhiều khi việc mua bán chuyển nhƣợng chỉ là trao tay, thiếu giấy tờ hợp lệ lại qua nhiều lần đổi chủ khiến việc thẩm định tính hợp pháp rất mất thời gian, công sức, đôi khi còn sai lệch. Chất lƣợng thẩm định tài sản thế chấp, cầm cố vì thế mà không cao.

Do hành lang pháp lý còn chƣa hoàn thiện: Mặc dù chính phủ, ngân hàng nhà nước, các bộ ngành liên quan đã ban hành hơn 20 văn bản pháp luật, quy định, thông tư nhằm hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng.

Nhƣng trên thực tế các văn bản này vẫn chƣa phát huy đƣợc tác dụng, chƣa đi sâu vào cuộc sống. Thêm vào đó công tác đánh giá thẩm định hay xử lý tài sản đòi hỏi động chạm đến nhiều lĩnh vực, bộ ngành khác nhau, trong khi các thông tư hướng dẫn của các bộ ngành đôi khi lại chồng chéo thiếu sự bàn bạc thống nhất ý kiến, hoặc có khi văn bản hướng dẫn theo một kiểu nhưng triển khai lại theo một cách khác, làm cho tổ chức tín dụng bị đẩy vào tình thế “một cổ nhiều tròng” làm nhƣ thế nào cũng vướng mắc.

72

 Nguyên nhân chủ quan:

Thời gian hoạt động ổn định của Chi nhánh thực tế còn chƣa nhiều, trình độ của đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập, đa số cán bộ trẻ chƣa có kinh nghiệm thực tế nên việc tiếp nhận phân tích thông tin còn hạn chế khiến cho công tác dự báo, dự đoán chƣa đƣợc chuẩn xác. Hoạt động tín dụng là hoạt động liên quan đến nhiều lĩnh vực nên đòi hỏi cán bộ tín dụng phải là người am hiểu sâu sắc các vấn đề kinh tế tài chính, nắm bắt kịp thời diễn biến mới xảy ra có liên quan đến hoạt động tín dụng. Nhƣng trên thực tế, không phải cán bộ nào tại Chi nhánh cũng am hiểu hết các vấn đề, điều này ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng/

Khối lƣợng công việc ngày càng nhiều trong khi số lƣợng cán bộ tín dụng còn mỏng, nên nhiều khi cán bộ tín dụng còn phải kiêm nhiệm khối lƣợng công việc khá lớn, do đó mà có thể dẫn đến chất lƣợng công việc không đạt hiệu quả tốt nhất.

Mặt khác công nghệ chƣa đồng bộ đã hạn chế lƣợng giao dịch phục vụ khách hàng, công tác triển khai bảo đảm tiền vay vì thế cũng gặp nhiều khó khăn nên hiệu quả chƣa cao.

Chi nhánh chƣa có phòng quản lý thông tin và xếp hạng tín dụng khách hàng riêng, vì thế mà công tác thu thập và xử lý thông tin chƣa cao. Hiện nay các cán bộ tín dụng vừa thu thập thông tin, tự đánh giá thẩm định, vừa làm vừa rút ra kinh nghiệm vừa khắc phục khó khăn. Điều này ảnh hưởng lớn đến quyết định tín dụng và việc triển khai các nghiệp vụ đảm bảo an toàn của nguồn vốn.

Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại chỗ đối với những cán bộ thừa hành và cán bộ quản lý nghiệp vụ tín dụng chưa được thường xuyên, sâu sát.

73

CHƯƠNG 4. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI – CHI

NHÁNH TÂY HỒ

Một phần của tài liệu Improving the credit quality in military commercial joint stock bank west lake branch (Trang 78 - 83)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(106 trang)