Vài nét về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại 28 1.2. Hành trình sáng tác của Sương Nguyệt Minh

Một phần của tài liệu Tiểu thuyết miền hoang của sương nguyệt minh từ góc nhìn trần thuật học (Trang 34 - 37)

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ TRẦN THUẬT HỌC VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA SƯƠNG NGUYỆT MINH

1.1. Khái quát về trần thuật học

1.1.4. Vài nét về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại 28 1.2. Hành trình sáng tác của Sương Nguyệt Minh

Khi hưởng ứng ý kiến: “hãy đọc lời ai điếu cho một nền văn học minh họa”

của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhiều nhà văn đã cố gắng tìm tòi, cách tân cho sáng tác của mình. Nhà phê bình Nguyễn Văn Long – Lê thị Thu Hằng trong bài viết Những cách tân nghệ thuật của tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI đã khẳng định: “Tiểu thuyết gặt hái đƣợc nhiều thành công, có những tìm tòi, bứt phá mạnh bạo về nghệ thuật, gây đƣợc tiếng vang trong công chúng và hiệu ứng xã hội rộng rãi” [28]. Sự tìm tòi, bứt phá mạnh bạo về nghệ thuật ấy được biểu hiện trên nhiều phương diện.

Trước hết là ở góc độ điểm nhìn trần thuật: Văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 không còn là nền văn học có khuynh hướng tác động đến người đọc bằng chân lí có sẵn của nhà văn nữa. Bởi vậy, nghệ thuật trần thuật của văn học Việt Nam đã không còn dừng lại ở điểm nhìn trần thuật do người phán truyện chân lý đảm nhận. Ở đây, người đọc không bị áp đặt chân lý mà được quyền bình đẳng với nhà văn trên hành trình tìm chân lý. Trần thuật nhiều điểm nhìn là bằng chứng quan trọng về đổi mới quan niệm văn xuôi. Mỗi điểm nhìn là một ý thức độc lập, qua đó sự việc, con người cũng sẽ được soi chiếu từ nhiều phía. Sự gia tăng điểm nhìn, dịch chuyển điểm nhìn linh hoạt của nghệ thuật trần thuật đƣợc xem là một trong những cách tân quan trọng của văn xuôi thời kì đổi mới.

Bằng nhiều cách nhìn khác nhau, văn học giai đoạn này đã thể hiện được sự bình đẳng của nhà văn với bạn đọc trên con đường tìm kiếm chân lý.

Tác phẩm văn học giai đoạn này đã sử dụng khá linh hoạt các điểm nhìn, từ đó thấy đƣợc đối thoại giữa nhà văn với nhân vật trong tác phẩm văn học. “Sự thay đổi điểm nhìn trần thuật tạo ra nhiều cơ hội cho nhà văn cách tân cốt truyện, chú ý hơn đến cấu trúc tác phẩm” [3, tr. 167]. Đọc Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh ta thấy không chỉ có một điểm nhìn của nhân vật Kiên, mà tác giả còn trao điểm nhìn cho các nhân vật khác nhƣ: Can, Phán, cha Kiên…Việc trần thuật từ điểm nhìn của nhiều nhân vật đã tạo ra nhiều góc quét khác nhau và có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu cuộc chiến tranh hiện ra trong cõi nhớ và trong cảm nhận của họ. Hay trong Phiên bản của Tạ Duy Anh, việc luân chuyển các điểm nhìn đã cho bạn đọc thấy đƣợc những phiên bản khác nhau của nhân vật Diệu, cả sự tàn bạo, dã man và cả những ƣớc mơ, khát vọng trong sáng, thánh thiện… Gia tăng điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm văn học sau năm 1975 góp phần tạo nên tính chất đa thanh của tiểu thuyết. Những tác giả có cách tân nổi bật ở phương diện này là Bảo Ninh,Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn

Việt Hà, Đoàn Minh Phương…Sáng tác của họ nhìn chung khước từ quan niệm “chủ đề rõ ràng” với tinh thần tin cậy, tôn trọng bạn đọc.

Thứ hai, sự đổi mới và gia tăng điểm nhìn kéo theo đó là nhãn quan ngôn ngữ của văn học sau 1975 cũng là nhãn quan dân chủ, cởi mở hơn. Ngôn ngữ ở đây là thứ ngôn ngữ đa thanh, mang tính đối thoại và có sự kết hợp của nhiều kênh ngôn ngữ. Những nhà văn có cá tính đều ý thức mình là một nghệ sĩ ngôn từ. Phạm Thị Hoài cho rằng: “Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên quy định cunh cách ứng xử của người cầm bút”. Có rất nhiều những lời khen dành cho ngôn ngữ giàu cá tính của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài, Chu Lai…Nhưng cũng không ít người có phản ứng gay gắt, phẫn nộ hoặc thất vọng trước chính những hiện tượng này. Dù đánh giá về ngôn ngữ văn xuôi sau 1986 khen chê ra sao, chúng ta vẫn phải thừa nhận nỗ lực cách tân ngôn ngữ của các tác giả thuộc văn học đương đại. Với Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài, Chu Lai…ngôn ngữ hiện thực – đời thường đậm chất khẩu ngữ được gia tăng tốc độ và lượng thông tin đã chuyển tải một cách hiệu quả trạng thái vận động, sự phức tạp xô bồ của đời sống đương đại. Đồng thời sự đổi mới về ngôn ngữ đã giúp cho văn học mang được nhiều hơi thở của cuộc sống, tươi tắn sinh động hơn.

Thứ ba, gắn liền với việc thay đổi cảm hứng, thay đổi mối quan hệ nhà văn – bạn đọc, thay đổi cấu trúc trần thuật…nên giọng điệu trần thuật cũng trở nên đa dạng. Đó là sự kết hợp của nhiều giọng điệu, với giọng trữ tình, giọng triết lí, giọng hoài nghi, chất vấn, đối thoại… nhƣng nổi bật là giọng giễu nhại và giọng vô âm sắc. Giễu nhại đã trở thành giọng điệu phổ biến với những sắc thái khác nhau ở nhiều cây bút tiểu thuyết, nhƣ Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà, Châu Diên. Giọng vô âm sắc thực chất là không giọng điệu, nó thể hiện ở lời trần thuật mang màu sắc trung tính, không hề có điểm nhìn bên trong mà chỉ đơn thuần trình bày sự việc từ bên ngoài, theo kiểu ống kính máy quay. Chủ trương tẩy trắng giọng điệu, các nhà văn sử dụng những câu

văn ngắn gọn, thường chỉ gồm chủ ngữ và vị ngữ, thậm chí chủ ngữ cũng bị lƣợc bỏ. Chính vì vậy, các câu văn chỉ có nội dung thông báo, không hề có lời bình luận thậm chí không hề có sắc thái biểu cảm. Có thể gặp giọng điệu này trong một số tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương và nhất là của Thuận.

Văn học Việt Nam sau 1975 đã và đang hình thành, phát triển, hòa nhập tạo thành dòng riêng giữa nguồn chung của văn học dân tộc. Nó thừa hưởng những thành quả nghệ thuật của văn học trước đó và sở hữu nhiều ưu thế so với các thế hệ trước. Xét riêng về phương diện nghệ thuật trần thuật chúng tối nhận thấy: văn học Việt Nam sau 1975 đã thực sự đổi mới và có những bước chuyển hướng mang lại cho đời sống văn học một màu sắc riêng – màu sắc của văn học đương đại.

Một phần của tài liệu Tiểu thuyết miền hoang của sương nguyệt minh từ góc nhìn trần thuật học (Trang 34 - 37)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(119 trang)