Các hình thức xuất khẩu

Một phần của tài liệu phân tích hoạt động kinh doanh xuất khẩu thủy hải sản tại công ty cổ phần thực phẩm sao ta (fimex vn), thành phố sóc trăng (Trang 28 - 33)

Chương 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CÚU

3.1 Cơ sở lý luận

3.1.3 Các hình thức xuất khẩu

Là việc nhà sản xuất trực tiếp tiến hành các giao dịch với khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Hình thức này được áp dụng khi nhà sản xuất đã đủ mạnh để tiến tới thành lập tổ chức bán hàng riêng của mình và kiểm soát trực tiếp thị trường. Tuy rủi ro kinh doanh có tăng lên song nhà sản xuất có cơ hội thu lợi nhuận nhiều hơn nhờ giảm bớt các chi phí trung gian và nắm bắt kịp thời những thông tin về biến động thị trường để có biện pháp đối phó.

3.1.3.2 Xuất khẩu gián tiếp

Là việc nhà sản xuất thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập đặt ngay tại nước xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu các sản phẩm của mình ra nước ngoài. Hình thức này thường được các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường quốc tế áp dụng. Ưu điểm của nó là doanh nghiệp không phải đầu tư nhiều cũng như không phải triển khai lực lượng bán hàng, các hoạt động xúc tiến, khuyếch trương ở nước ngoài. Hơn nữa rủi ro cũng hạn chế vì trách nhiệm bán hàng thuộc về các tổ chức trung gian. Tuy nhiên phương thức này làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do phải chia sẻ với các tổ chức tiêu thụ, không liên hệ trực tiếp với nước ngoài, vì thế nên việc nắm bắt thông tin về thị trường cũng bị hạn chế, dẫn đến chậm thích ứng các biến động của thị trường.

3.1.3.3 Xuất khẩu theo nghị định thư (Xuất khẩu trả nợ)

Đây là hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu theo chỉ tiêu nhà nước giao cho về một hoặc một số hàng hoá nhất định theo chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký kết giữa hai chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí cho nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng, tránh sự rủi ro trong thanh toán

3.1.3.4 Xuất khẩu tại chỗ

Là hình thức kinh doanh xuất khẩu đang có xu hướng phát triển và phổ biến rộng rãi bởi những ưu điểm của nó mang lại. Đặc điểm của loại hình này là hàng hoá không phải vượt qua biên giới quốc gia mà khách hàng vẫn có thể mua được. Do vậy xuất khẩu không cần đích thân ra nước ngoài đàm phán với người mua mà người mua tự tìm đến với họ. Mặt khác doanh nghiệp sẽ tránh được những rắc rối hải quan, không phải thuê phương tiện vận chuyển mua bảo hiểm hàng hoá. Nên giảm được lượng chi phí khá lớn. Đồng thời hình thức này cho phép doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh, lợi nhuận cao.

3.1.3.5 Gia công quốc tế

Là một hình thức kinh doanh, theo đó một bên nhập nguyên vật liệu, hoặc bán thành phẩm để chế biến thành phẩm rồi giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (tiền gia công). Đây cũng là hình thức đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt ở các nước có nguồn lao động dồi dào, tài nguyên phong phú. Bởi vì thông qua gia công, các quốc gia này sẽ có điều kiện đổi mới, cải tiến máy móc thiết bị và kĩ thuật công nghệ, tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao năng lực sản xuất.

3.1.3.6 Tái xuất khẩu

Là việc xuất khẩu những hàng hoá mà trước đây đã nhập khẩu về nhưng vẫn chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Hình thức này cho phép thu lợi nhuận cao mà không phải không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào nhà xưởng máy móc thiết bị… Chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu này nhất thiết phải có sự góp mặt của 3 quốc gia: nước xuất khẩu – nước nhập khẩu – nước tái xuất khẩu.

3.1.4 Vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước (Theo giáo trình Bùi Xuân Lưu và Nguyễn Hữu Khải, 2006)

- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ cho nền Công Nghiệp Hoá đất nước.

- Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển.

- Xuất khẩu có tác dụng tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của người dân.

- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.

3.1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu (Theo giáo trình Phan Thị Ngọc Khuyên, 2009)

Đặc điểm của thị trường: những thông tin về những nét văn hóa và thị hiếu tiêu dùng của thị trường.

Quy chế chính sách của thị trường xuất khẩu.

3.1.5.1 Thuế quan

Thuế quan là một khoản tiền mà chủ hàng hóa xuất nhập khẩu hoặc quá cảnh phải nộp cho hải quan đại diện cho nước chủ nhà. Kết quả của thuế quan là làm tăng chi phí của việc đưa hàng hóa đến một nước.

3.1.5.2 Hạn ngạch

Hạn ngạch nhập khẩu nghĩa là số lượng hàng hóa hoặc giá trị hàng hóa mà chính phủ một nước quy định nhập khẩu nói chung hoặc từ một quốc gia cụ thể nào đó trong một thời gian nhất định, thường là một năm.

Hạn ngạch tuyệt đối: Giới hạn tối đa về số lượng hoặc giá trị hàng hóa được phép nhập khẩu nói chung hoặc từ một quốc gia cụ thể trong một khoản thời gian nhất định.

Hạn ngạch thuế quan: Giới hạn tối đa về số lượng hoặc giá trị hàng hóa được phép nhập khẩu được hưởng thuế quan ưu đãi, nếu số lượng hoặc giá trị hàng hóa vượt qua ngưỡng tối đa này sẽ chịu mức thuế quan cao.

Thường những giới hạn này được áp dụng bằng cách cấp giấy phép cho một công ty hay cá nhân. Khi hạn ngạch quy định cho cả mặt hàng và thị trường thì hàng hóa đó chỉ được nhập khẩu từ thị trường với với tổng số lượng và thời gian nhất định.

3.1.5.3 Hạn chế xuất khẩu tự nguyện

Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restrains – VERs) là một biến thể của hạn ngạch nhập khẩu do phía nước xuất khẩu đặt ra thay vì nước nhập khẩu. Ví dụ như việc Nhật Bản hạn chế xuất khẩu ô tô sang Mỹ kể từ năm 1981.

VERs nói chung được đưa ra theo yêu cầu của nước nhập khẩu và được nước xuất khẩu chấp nhận nhằm chặn trước những hạn chế mậu dịch khác.

VERs có những lợi thế chính trị và pháp lý nhất định nên trong những năm gần đây chúng trở thành những công cụ rất được ưa dùng trong chính sách ngoại thương.

Hàng rào kỹ thuật về tiêu chuẩn công nghệ, lao động, về vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường,…

Vận dụng thỏa thuận về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (Technical Baries to Trade – TBTT) và “những ngoại lệ chung” trong WTO, các nước còn đưa ra những tiêu chuẩn mà có thể hàng rào sản xuất nội địa đáp ứng hơn hàng hóa nhập khẩu, như các quy định về công nghệ, quy trình sản xuất, về an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường,…

3.1.5.4 Chính sách ngoại thương

Chính sách ngoại thương là một hệ thống các nguyên tắc, biên pháp kinh tế, hành chánh và pháp luật dùng để thực hiện các mục tiêu đã được xác định trong lĩnh vực ngoại thương của một nước trong một thời kì nhất định.

Chính sách ngoại thương là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế của một đất nước, nó góp phần thúc đẩy thực hiện các mục tiêu kinh tế của đất nước trong từng thời kì.

Mục tiêu phát triển kinh tế của một đất nước trong từng thời kì có khác nhau cho nên đường lối chính sách ngoại thương phải thay đổi để đạt được những mục tiêu cụ thể của chính sách kinh tế. Không có chính sách ngoại thương áp dụng cho mọi thời kì phát triển kinh tế. Tuy nhiên các chính sách ngoại thương đều có tác dụng bảo vệ sản xuất trong nước chống lại sự cạnh tranh từ bên ngoài tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và bành chướng ra bên ngoài.

Mỗi nước đều có những đặc thù chính trị, kinh tế - xã hội và điều kiện tự nhiên để phát triển kinh tế, vì vậy mỗi nước đều có chính sách phát triển ngoại thương riêng với các biện pháp cụ thể.

3.1.5.5 Nguyên tắc tối huệ quốc MFN (Most Favaoured Nation)

Nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) là biểu hiện của việc “không phân biệt đối xử” trong quan hệ mậu dịch giữa các nước. Nó có nghĩa là các bên tham gia trong quan hệ kinh tế buôn bán sẽ dành cho những điều kiện ưu đãi không kém hơn những ưu đãi mà mình đã hoặc sẽ dành cho nước khác.

Nguyên tắc này được hiểu theo hai cách:

Thứ nhất: Tất cả những ưu đãi và miễn giảm mà một bên tham gia trong các quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế đã hoặc sẽ dành cho bất kì một nước thứ ba nào cũng được dành cho bên tham gia kia được hưởng một cách không điều kiện.

Thứ hai: Hàng hóa di chuyển từ một bên tham gia trong các quan hệ kinh tế - thương mại này đưa vào lãnh thổ của bên tham gia kia sẽ không phải chịu mức thuế và các phí tổn cao hơn, không bị chịu các thủ tục phiền hà hơn so hàng hóa nhập khẩu từ các nước khác. Theo luật pháp quốc tế thì điều chủ yếu của quy chế Tối huệ quốc là không phải cho nhau hưởng các đặc quyền mà là đảm bảo sự bình đẳng giữa các quốc gia có chủ quyền về cơ hội giao dịch thương mại và kinh tế.

3.1.5.6 Thuế quan ưu đãi phổ cập GSP (Generalized Sustem of Preference) Nghiên cứu chế độ Tối huệ quốc cần phải nghiên cứu chế độ MFN đặc biệt dành cho các nước chậm tiến và đang phát triển thông qua chế độ ưu đãi phổ cập GSP.

GSP là hệ thống ưu đãi về thuế quan do các nước công nghiệp phát triển dành cho 1 số sản phẩm nhất định mà họ nhập khẩu từ các nước đang pháy triển (gọi là các nước nhận ưu đãi).

Nội dung chính của chế độ GSP là:

Giảm thuế hoặc miễn thuế quan đối với hàng nhập khẩu của các nước đang hoặc kém phát triển.

GSP áp dụng cho các loại hàng công nghiệp thành phẩm hoặc bán thành phẩm và hàng loạt các mặt hàng công nghiệp chế biến.

Quy định đối với hàng hóa hưởng chế độ GSP: Không phải bất kỳ sản phẩm nào nhập khẩu vào các nước cho hưởng từ các nước được hưởng đều được giảm hay miễn thuế theo GSP. Để được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi GSP, hàng nhập khẩu vào những nước cho hưởng phải thỏa ba điều kiện như sau:

Điều kiện xuất xứ từ các nước được hưởng.

Điều kiện về vận tải (Ví dụ: hàng vận chuyển không qua lãnh thổ nước thứ ba hoặc không qua mua bán tái chế lại).

Điều kiện về giấy chứng nhận xuất xứ.

 Đối thủ cạnh tranh: là những doanh nghiệp trong và ngoài nước hoạt động sản xuất kinh doanh cùng loại sản phẩm hoặc những sản phẩm tương tự có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty. Đối thủ cạnh tranh gồm có: đối thủ cạnh tranh hiện tại, đối thủ cạnh tranh tương lai, đối thủ cạnh tranh trực tiếp và gián tiếp.

 Thị trường nguyên liệu: là nơi diễn ra hoạt đông mua bán nguyên liệu,

Một phần của tài liệu phân tích hoạt động kinh doanh xuất khẩu thủy hải sản tại công ty cổ phần thực phẩm sao ta (fimex vn), thành phố sóc trăng (Trang 28 - 33)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(96 trang)