Chương 1: ĐẢNG BỘ PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH RUỘNG ĐẤT VÀ GIẢM TÔ, GIẢM TỨC 1945 - 1954
1.3.1. Chủ trương giảm tô, giảm tức của Đảng 1953 – 1954
Bước sang đến năm 1953, tình hình cách mạng Việt Nam có nhiều thay đổi. Vùng tự do của ta đã tương đối mở rộng và ổn định, lại thông với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa. Cách mạng Việt Nam thoát khỏi thế bao vây cô độc, quân đội ta đã giữ vững và phát huy thế chủ động chiến lược trên toàn chiến trường. Sự chuyển biến của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược vào những năm cuối cùng đòi hỏi chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến ngày càng trở nên cấp thiết. Để đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi cuối cùng nhất thiết phải động viên lực lượng nhân dân mà nông dân chiếm đa số. Muốn thế, điều quan trọng là phải không ngừng bồi dưỡng lực lượng nông dân, cải thiện đời sống nhân dân. Đã đến lúc phải tiến tới thỏa mãn yêu cầu căn bản, cấp bách của nông thôn – yêu cầu về ruộng đất.
Trước yêu cầu đó, từ 25 đến 30 tháng 1 năm 1953, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ tư, kiểm điểm thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng trong những năm kháng chiến. Hội nghị quyết định:
Tiêu diệt chế độ sở hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của bọn đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xóa bỏ chế độ phong kiến sở hữu ruộng đất của địa chủ Việt Nam và ngoại kiều, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân.
Để tiến tới thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng, trong năm 1953, chúng ta phải phóng tay phát động quần chúng nông dân triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, chia lại công điền, chia hẳn ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cho nông dân, chủ yếu là triệt để giảm tô [41, tr 63].
Công tác phát động quần chúng năm 1953 là một bước cần thiết để thiết thực chuẩn bị cải cách ruộng đất.
- Tháng 4 năm 1953, Trung ương Đảng ra chỉ thị “phát động quần chúng trong năm 1953”, nêu lên mục đích, nội dung, phương châm và chính sách và phương pháp tiến hành cuộc phát động quần chúng giảm tô.
- Ngày 12 tháng 4 năm 1953,, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 149-SL quy định chính sách ruộng đất, Sắc lệnh 150- SL về việc thành lập tòa án nhân dân đặc biệt và Sắc lệnh 151-SL về việc trừng trị địa chủ chống pháp luật trong khi và ở những nơi phát động quần chúng.
- Theo đó, nội dung của cuộc phát động quần chúng là: lãnh đạo nông dân đấu tranh đánh đổ Việt gian phản động, cường hào gian ác, lấy triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức làm nội dung chính. Chia hẳn ruộng đất của Pháp và Việt gian cho nông dân nghèo theo nhân khẩu. Sử dụng hợp lý ruộng đất vắng chủ.
- Nhưng chủ yếu là triệt để giảm tô (bao gồm cả thoái tô) vì nó làm giảm bớt uy thế chính trị và kinh tế của địa chủ. Điều chú ý là vấn đề thoái tô là một đòn đánh mạnh vào địa chủ. Tuy nhiên, thoái tô đối với địa chủ và phú nông, mức độ thoái và thời gian trả có thể châm chước tùy từng trường hợp.
Điều 5 Nghị định số 253 TTg ngày 20 tháng 4 năm 1953 quy định chi tiết thi hành chính sách ruộng đất theo Sắc lệnh số 149 – SL ghi rõ: “Đối với thoái tô, phải phân biệt phú nông với địa chủ và phân biệt với các hạng địa chủ mà đối đãi. Nói chung phải châm chước đối với phú nông và đối với địa chủ nhỏ, địa chủ vừa và địa chủ tuân theo pháp luật, địa chủ không phải là cường hào gian ác. Châm chước nghĩa là tùy từng trường hợp đối đãi: giảm, hoãn, hoặc miễn trong việc thoái tô” [24, tr 53].
- Mục đích của cuộc phát động quần chúng triệt để giảm tô: “Đánh đổ thế lực phản động, làm yếu thế lực phong kiến, đập tan thế lực chính trị của phong kiến, thỏa mãn một phần yêu cầu kinh tế của nông dân và giành ưu thế chính trị cho nông dân lao động ở nông thôn, củng cố liên minh công – nông,
củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến, chuẩn bị điều kiện cải cách ruộng đất” [36, tr 175].
- Để thực hiện yêu cầu, mục đích đề ra, phương châm của Đảng là:
Phóng tay phát động quần chúng, theo đúng đường lối quần chúng, dựa vào quần chúng đông đảo, vận động quần chúng đấu tranh: về chính trị thì đập tan thế lực phong kiến, về kinh tế thì làm yếu thế lực phong kiến, tổ chức quần chúng tích cực sản xuất, tích cực tham gia kháng chiến.
Nguyên tắc thực hiện:
a. Căn cứ vào nguyện vọng tha thiết trước mắt của số đông quần chúng địa phương mà đề ra khẩu hiệu đấu tranh cho thích hợp;
b. Kiên nhẫn giáo dục và tổ chức quần chúng, làm cho quần chúng tự giác, tự nguyện đấu tranh, tuyệt đối không mệnh lệnh, không làm thay, không ban ơn;
c. Tìm ra và tổ chức những phần tử trung kiên trong bần cố nông làm cốt cán giúp Đảng lãnh đạo;
d. Phát động quần chúng nông dân cả nam lẫn nữ, xây dựng nông hội mạnh mẽ để làm nòng cốt cho phong trào [36, tr 176].
Sách lược chung của Đảng đối với các tầng lớp ở nông thôn trong cuộc phát động quần chúng này là: dựa vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, trung lập với phú nông, đấu tranh với địa chủ, đánh đổ Việt gian phản động.
Sách lược đó xuất phát từ nhận định:
Bần cố nông là người bị bóc lột nhất ở nông thôn nên sẽ kiên quyết, hăng hái đấu tranh nhất, nên Đảng chủ trương phải dựa vào bần cố nông, tìm ra phần tử trung kiên trong bần cố nông, nung nấu tinh thần đấu tranh trong bần cố nông để gây dựng phong trào quần chúng.
Trung nông là những người bị địa chủ phong kiến bóc lột, cũng hăng hái đấu tranh, nên phải đoàn kết chặt chẽ với trung nông, làm cho họ tham gia hàng ngũ đấu tranh. Cho nên chẳng những không được động chạm đến quyền
lợi của họ, mà còn phải làm cho họ đấu tranh được hưởng quyền lợi. Đoàn kết chặt chẽ với trung nông không phải là sách lược tạm thời mà là chiến lược lâu dài. Đoàn kết trung nông trên cơ sở dựa hẳn vào bần cố nông.
Phú nông bóc lột chủ yếu theo lối thuê công nhân, nhưng rất nhiều phú nông nước ta lại bóc lột tô, tức theo lối phong kiến. Trong cách mạng ta cần liên minh với phú nông để đánh đổ đế quốc và phong kiến. Trong cuộc vận động giảm tô, giảm tức, ban đầu Đảng cho rằng cần phải trung lập phú nông.
Vì địa chủ giảm tô, giảm tức thì phú nông cũng phải giảm. Hơn nữa, đối tượng chủ yếu của quần chúng đấu tranh là địa chủ nên cố gắng trung lập phú nông, không để phú nông nhập cuộc với địa chủ chống lại nông dân lao động.
Nhưng sau cuộc phát động quần chúng trong đợt thí điểm, Đảng đã nhận thấy nhiều sai lầm trong chủ trương trung lập phú nông. Nghị quyết Hội nghị Chính trị Trung ương Đảng (8 đến 9 - 8 - 1953) nhấn mạnh: “Ta đang thực hiện hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, ta lại có Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Vì vậy càng bớt kẻ địch càng tốt. Diện đấu tranh và diện đả kích không nên quá rộng… Vì mục đích cô lập địa chủ, tập trung lực lượng đánh đổ thế lực phong kiến; vì đoàn kết nông thôn, đẩy mạnh sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến, vì lợi dụng điều kiện có lợi của kinh tế phú nông để tăng gia sản xuất; làm cho trung nông an tâm và mạnh dạn phát triển sản xuất” [36; tr 279 – 280]. Trung ương Đảng đã quyết định bỏ khẩu hiệu trung lập phú nông bằng khẩu hiệu “liên hiệp phú nông”.
Đối với địa chủ thì Đảng căn cứ trên nguyên tắc: đập tan thế lực chính trị, làm yếu thế lực kinh tế, phân biệt địa chủ mà thái độ đối đãi khác nhau.
Với Việt gian phản động và cường hào gian ác thì kiên quyết đánh đổ.
Phương pháp đấu tranh với địa chủ là: đánh trước kéo sau, vừa đánh vừa kéo. Lúc đầu địa chủ chưa thi hành giảm tô, giảm tức và nông dân chưa nổi dậy thì phải tích cực phát động nông dân thi hành đúng sắc luật. Như thế địa chủ không chạy theo địch, chống lại ta. Đó là kéo. Trong lúc đánh, tập
trung lực lượng đấu tranh với một số địa chủ ngoan cố nhất. Tạm thời trung lập với những địa chủ khác chứ không đánh tất cả địa chủ một loạt. Giáo dục nông dân biết cách đấu tranh hợp pháp với địa chủ, ngăn ngừa địa chủ phản động, đề phòng địa chủ dùng thủ đoạn lừa bịp, hăm dọa, mua chuộc. Đó là vừa đánh vừa kéo, trong đánh có kéo [56, tr 17].
Phương pháp tiến hành phát động quần chúng là: phát động quần chúng có kế hoạch, tiến hành từng bước một, có lãnh đạo, đối với những vùng khác nhau thì yêu cầu và cách làm cũng khác nhau.
Phát động quần chúng năm 1953 – 1954 là một cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, là một chiến dịch lớn và phức tạp vì sự phản kháng của giai cấp địa chủ.
Do đó, Đảng chủ trương chỉ phát động quần chúng ở những vùng tự do, những vùng căn cứ du kích thì tùy điều kiện nhưng yêu cầu và hình thức thấp hơn.
Theo tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng, các địa phương đã tiến hành thực hiện các bước giảm tô, giảm tức.