Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải quyết việc làm

Một phần của tài liệu Đảng bộ tỉnh vĩnh phúc lãnh đạo chỉ đạo giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình cnh hđh nông nghiệp nông thôn từ 1997 2010 (Trang 29 - 37)

Chương 2.QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC CHỈ ĐẠO GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN (1997 – 2010)

2.1 Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải quyết việc làm

Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986 – 1996), công cuộc đổi mới đất nước đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng.

Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991- 1995 đã được hoàn thành về cơ bản. Đất nước không còn trong tình trạng đình đốn về sản xuất, rối ren trong lưu thông. Kinh tế tăng trưởng nhanh, tống sản phẩm quốc nội GDP tăng bình quân hàng năm là 8,2% (1991 – 1995). Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo.

Trên cơ sở những thắng lợi bước đầu trong thực hiện những vấn đề lao động, việc làm từ năm 1991 – 1995, Đảng tiếp tục lãnh đạo thực hiện chính sách lao động và việc làm những năm 1996 – 2006.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng mở đầu thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh theo định hướng XHCN. Đại hội cũng nêu ra khó khăn trong những năm trước mắt đối với sự phát triển CNH, HĐH ở nước ta:

đó là khả năng vốn có hạn, nhu cầu làm việc rất bức bách, đời sống nhân dân có nhiều khó khăn. Do vậy để giải quyết vấn đề việc làm ổn định “cần chánh những sai lầm chủ quan nóng vội, quá thiên về công nghiệp nặng, ham quy mô lớn. phải đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông thôn, ra sức phát triển nông – lâm – nghư nghiệp, chế biến nông - lâm – thủy sản, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, các ngành du lịch, dịch vụ; khôi phục phát triển từng bước hiện đại hóa các ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống, đi đôi với mở mang những ngành nghề mới ” [25, tr.102].

28

Từ thành quả bước đầu trong lĩnh vực lao động những năm 1991 – 1995, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 nêu rõ phương hướng thực hiện chính sách lao động và việc làm: giải quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu của chiến lược, là một tiêu chuẩn để định hướng cơ cấu kinh tế và lựa chọn công nghệ. Hướng ưu tiên là giải quyết việc làm cho những người đến tuổi lao động, đặc biệt ở thành phố và bộ đội xuất ngũ, học sinh ra trường. Chương trình quốc gia về việc làm hướng vào phát triển một số ngành trọng điểm tạo được nhiều việc làm như: nuôi trồng và chế biến nông – lâm – thủy sản, làm hàng xuất khẩu, các ngành công nghiệp dùng nhiều lao động, phủ xanh và sử dụng đất trống, đồi trọc, xây dựng kết hạ tầng, mở mang các ngành dịch vụ, xuất khẩu lao động [25, tr.105].

Nhà nước tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, môi trường về sản xuất kinh doanh và đào tạo nghề nghiệp, người lao động phải chủ động tạo việc làm và tìm kiếm việc làm. Mọi nghề mang lại thu nhập cho người lao động và có ích cho xã hội đều được tôn trọng.

Định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, đặc biệt vấn đề tập trung sức tạo việc làm, Đảng nhấn mạnh: “Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề tạo việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa bàn có tính chiến lược về kinh tế - an ninh – quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn” [25, tr.114].

Bên cạnh những khó khăn trước mắt, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kịnh tế - xã hội,

29

công cuộc đổi mới đã bước đầu thu được những thành tựu đáng kể. “Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. số hộ có thu hập trung bình và số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm. Nhiều nhà ở, đường giao thông được nâng cấp và xây dựng mới ở cả nông thôn và thành thị [25, tr.120].

Trình độ dân trí và mức lương hưởng thụ, văn hóa được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hóa gia đình và nhiều mặt xã hội khác có những mặt phát triển tiến bộ.

Người lao động được giải phóng khỏi giàng buộc bởi nhiều cơ chế không hợp lý, phát huy được quyền làm chủ, tính năng động, sáng tạo, chủ động hơn trong việc tìm việc làm, tăng thu nhập, tham gia các sinh hoạt các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội” [25, tr.115]

Đại hội VIII cũng xác định trong giai đoạn 1996 – 2000 Nhà nước cần phải đầu tư tạo thêm nhiều chỗ làm việc và khuyến khích mọi người tự tìm kiếm việc làm và có thể giúp đỡ người khác làm việc, giảm tỷ lệ người chưa có việc làm ở thành thị xuống còn 5% và nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nông thôn lên 75% vào đầu năm 2000.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001), đã xác định:

“Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo việc làm mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn [25, tr.241].

Cụ thể hoá chủ trương trong Đại hội IX của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách liên quan đến vấn đề nông nghiệp, nông thôn trong đó đặc biệt quan tâm đến việc giải quyết việc làm cho người nông dân trong vùng

30

chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Từ năm 2001 đến năm 2004, Nhà nườc tiếp tục thực hiện chính sách đền bù và hỗ trợ việc làm cho người lao động theo Nghị định 22/1998/NĐ-CP của Chính phủ. Theo Nghị định này thì người lao động vùng chuyển đổi mục đích sử đụng đất, khi bị mất việc làm sẽ được nhận hỗ trợ phí đào tạo nghề và được ưu tiên trong quá trình tuyển dụng lao động. Tại Chương IV trong Nghị định 22/1998/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định rõ: “ Người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất có trách nhiệm:

a, Hỗ trợ phí đào tạo nghề cho lao động nông nhiệp phải chuyển đổi nghề làm khác do bị thu hồi đất, mức chi cụ thể do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định công khai .

b, Nếu có nhu cầu tuyển dụng lao động mới thì phải ưu tiên tuyển dụng lao động thuộc các đối tượng có đất bị thu hồi ” [8, tr.8].

Từ năm 2004, chính sách đền bù và hỗ trợ cho lao động vùng thu hồi đất được áp dụng theo Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03-12-2004 của Chính phủ về Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho nông dân vùng thu hồi đất để phát triển công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Theo Nghị định này thì: “ Việc hỗ trợ chuyển đổi nghề cho số lao động trong độ tuổi lao động của các hộ gia đình bị thu hổi đất sản xuất nông nghiệp được thực hiện bằng hình thức hỗ trợ một phần chi phí học nghề tại các cơ sở dạy nghề ở địa phương ” [9, tr.6].

Để giải quyết tốt hơn nữa vấn đề việc làm cho nông dân vùng dành đất phát triển công nghiệp, thực hiện đồng thời cả hai nhiệm vụ vừa giải quyết việc làm vừa nâng cao trình độ tay nghề cho nông dân, đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng, ngày 18-04-2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 81/2005/TTg về “Chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn”. Quyết định quy định kinh phí hỗ trợ việc dạy nghề cho lao động nông thôn, trong đó ưu tiên lao động bị mất đất sản xuất do Nhà nước thu hồi,

31

chuyển đổi mục đích sử dụng đất sẽ được hưởng mức hỗ trợ tối đa là 300.000 đồng/người/tháng và không quá 1.500.000 đồng/người/khoá học nghề.

Đến ngày 7/06/2005, Bộ LĐ-TBXH đã ra Quyết định số 1000/2005/QĐ- LĐTB&XH về phê duyệt “Đề án xã hội hoá dạy nghề đến năm 2010” nhằm mở rộng hơn nữa quy mô và phạm vi đào tạo nghề, nâng cao chất lượng dạy nghề đồng thời khuyến khích lao động đặc biệt là lao động nông thôn, lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất đi học nghề.

Ngoài ra còn có các “Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005”, “Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2007-2010” cũng được Chính phủ phê duyệt. Các CTMTQG này đều nêu lên mục tiêu và phương hướng giải quyết việc làm của quốc gia trong từng giai đoạn nhất định.

Bước sang giai đoạn 2006 – 2010, để tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH và đề ra phương hướng, mục tiêu cụ thể cho giai đoạn này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã họp và xác định mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới (2006 – 2010 ) là: “Đẩy mạnh CNH, HĐHvà phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” [24, tr.186]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X xác định nông nghiệp, nông thôn được coi là vấn đề trọng tâm và có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng: “Hiện nay, và trong nhiều năm tới nữa, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn luôn coi trọng, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn” [24,tr.190 - 191].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Chúng ta cần tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH. Trong

32

đó vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một vấn đề lớn của quá trình công nghiệp hóa đối với tất cả các nước tiến hành công nghiệp hóa trên thế giới, bởi vì công nghiệp hóa là quá trình thu hẹp khu vực nông nghiệp, nông thôn và gia tăng khu vực công nghiệp, xây dựng dịch vụ và đô thị. Nông nghiệp là nơi cung cấp lương thực, nguyên liệu và lao động cho công nghiệp và thành thị, là thị trường rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn chiếm đa số dân cư ở thời điểm khi bắt đầu công nghiệp hóa. Vì vậy, quan tâm đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn là một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa. Ở nước ta, trong những năm qua, vấn đề CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn được đặt ở vị trí quan trọng.

Trong những năm tới, định hướng phát triển cho quá trình này là: chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa, phù hợp đặc điểm từng vùng, từng địa phương.Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng nhấn mạnh: để đẩy mạnh CNH, HĐHnông nghiệp, nông thôn phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; Đẩy mạnh nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ; Tăng vốn đầu tư… Song điều quan trọng để đảm bảo tính bền vững cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn là phát triển kinh tế nông thôn phải đi đôi với giải quyết việc làm cho nông dân: “ Đẩy mạnh phát triển công nghệ và dịch vụ ở nông thôn, nhất là những ngành nghề sử dụng nhiều lao động, coi đây là hướng chính để tạo ra nhiều việc làm mới, góp phần tăng nhanh thu nhập cho nông dân ”[24, tr. 192].

33

Về việc nâng cao trình độ cho người nông dân, giúp họ chuyển đổi nghề nghiệp, Đại hội đề ra giải pháp: “ Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân và lao động nông thôn, nhất là các vùng Nhà nước thu hồi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở phi nông nghiệp. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn, giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ, tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm cả trong nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ tại chỗ và ngoài nông thôn, kể cả ở nước ngoài”. [24,tr.195]

Đại hội cũng đưa ra những biện pháp trong lĩnh vực giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn: “Ưu tiên dành vốn đầu tư của Nhà nước và huy động vốn của toàn xã hội để giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Khuyến khích người lao động tự tạo việc làm, phát triển nhanh các loại hình doanh nghiệp để thu hút nhiều lao động, chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho lao động nông thôn, nhất là những nơi đất nông nghiệp bị chuyển đổi do đô thị hoá và công nghiệp hoá. Phát triển các dịch vụ phục vụ đời sống của người lao động ở các khu công nghiệp. Tiếp tục thực hiện chương trình XKLĐ, tăng tỷ lệ lao động xuất khẩu đã qua đào tạo, quản lý chặt chẽ và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động” [24, tr.216].

Như vậy, có thể thấy rằng đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất đã được Đảng đặc biệt quan tâm và có biện pháp, định hướng rõ ràng. Giải quyết việc làm cho nông dân vùng thu hồi đất không chỉ góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, mà còn góp phần quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao đời sống của nông dân nông thôn.

Triển khai chủ trương của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, ngày 09/08/2007 hội nghị lần thứ VII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã họp để thảo luận và thông qua ba đề án quan trọng, trong

34

đó có đề ánNông nghiệp, nông dân, nông thôn”. Sau khi thảo luận và giải trình đề án, hội nghị đã ra Nghị quyết số 26-NQ/TU về “ nông nghiệp, nông dân, nông thôn’’. Nghị quyết đã nêu rõ các thành tựu, hạn chế của nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam, từ đó đưa ra mục tiêu, nhiệm vụ và phương hướng giải quyết đến năm 2020. Thông qua Nghị quyết, Đảng đã một lần nữa nhấn mạnh: “ Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá… các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển”[26, tr. 124].

Hội nghị cũng đã xác định nội dung được ưu tiên hàng đầu trong vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là: “ giải quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương tình kinh tế, xã hội của cả nước… có kế hoạch cụ thể đào tạo nghề và chính sách bảo đảm việc làm cho nông dân, nhất là ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Đẩy mạnh XKLĐ từ nông thôn, triển khai kế hoạch hợp tác sản xuất nông nghiệp với một số quốc gia có nhu cầu” [26, tr. 135].

Về biện pháp giải quyết việc làm cho nông dân, hội nghị cũng đưa ra các biện pháp:

- Tạo môi trường thuận lợi để hình thành và phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp nông thôn, nhất là các doanh nhiệp chế biến nông sản, sử dụng nhiều nguyên liệu và hút nhiều lao động tại chỗ.

- Phải tăng ngân sách đầu tư vào việc đào tạo nghề cho con em nông dân để họ chuyển đổi nghề, XKLĐ.

- Giao đất cho các hộ gia đình sử dụng lâu dài để họ kinh doanh, phát triển dịch vụ.

Một phần của tài liệu Đảng bộ tỉnh vĩnh phúc lãnh đạo chỉ đạo giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình cnh hđh nông nghiệp nông thôn từ 1997 2010 (Trang 29 - 37)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(112 trang)