Chương 2 Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh
2.5. Cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa có khả năng thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Đầu năm 1921, trong bài Những kẻ bại trận ở Đông Dương, đăng trên tạp chí La Revue Communiste (số 14), Hồ Chí Minh đã nhắc đến mối liên hệ giữa cách mạng chính quốc với cách mạng thuộc địa với hy vọng: “không còn xa lắm... giai cấp vô sản chính quốc sẽ làm nhiệm vụ của mình: họ sẽ tống cổ tất cả bọn ăn bám ra khỏi cửa; sau khi đã giải phóng mình, họ sẽ giải phóng những người anh em ở Đông Dương; được giải phóng khỏi ách đế quốc chủ nghĩa, nhân dân Đông Dương nhất định sẽ tự hào và hạnh phúc”[67, 30]. Và qua hoạt động thực tiễn, với tư duy sắc sảo, Người đã khẳng định tính tất yếu của cách mạng thuộc địa và vai trò quan trọng của các thuộc địa đối với phong trào cách mạng vô sản ở chính quốc và đối với sự tồn tại của chủ nghĩa đế quốc... Do vậy, Người sớm nhận ra rằng, cách mạng thuộc địa có mối quan hệ hữu cơ với cách mạng chính quốc, song không phụ thuộc vào cách mạng chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”[67, 36]. Viết về phong trào cách mạng Đông Dương và Việt Nam, trong tác phẩm Đường cách mệnh, một lần nữa Hồ Chí Minh lại khẳng định tính vượt trước của cách mạng thuộc địa và sự tác động trở lại của nó đối với cách mạng vô sản ở chính quốc, rằng: “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì
tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ”[68, 266].
Như vậy, theo quan điểm của Người, cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc, và hơn nữa nó còn tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng chính quốc mau đến thành công.
Vậy dựa trên những cơ sở nào mà Hồ Chí Minh đưa ra nhận định táo bạo đó, trong khi nhiều quan điểm khác, thậm chí của Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản châu Âu còn coi thường vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa hoặc không tin tưởng vào khả năng thắng lợi trước của nó, coi nó phải phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến?
Qua nghiên cứu các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh trong thời kỳ 1920 - 1930, chúng ta có thể tìm thấy những kiến giải cho nhận định trên.
Trước hết, Hồ Chí Minh nhận thức được tính tất yếu phải diệt vong của đế quốc thực dân vì chính sự tàn bạo của chúng. Ngay từ rất sớm, Mác và ăngghen đã chỉ ra rằng: “Những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản.
Nhưng giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản... giai cấp tư sản sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó”[57, 605; 613]. Hồ Chí Minh trên cơ sở nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương, tiếp tục làm rõ thêm tính tất yếu phải diệt vong của chúng. Năm 1928, trong bài Chủ nghĩa tư bản đế quốc Pháp ở Đông Dương của Hồ Chí Minh gửi cho tạp chí Thư tín quốc tế (Inprecorr), Người chỉ rõ: “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thực dân ở Đông Dương đã tạo ra ở xứ đó hai giai cấp vô sản, giai cấp vô sản công nghiệp và giai cấp vô sản nông
nghiệp”[68, 357]. Điều đó có nghĩa là nó đã tạo ra giai cấp công nhân trong lòng xã hội thuộc địa - lực lượng có khả năng thủ tiêu chủ nghĩa đế quốc. Và Người khẳng định: “Việc đã tạo ra một giai cấp vô sản và dạy cho người An Nam biết sử dụng súng ống là một bằng cớ chứng tỏ chủ nghĩa đế quốc tự mình đào hố để chôn mình”[68, 361].
Nhân dân Đông Dương nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng, trong đó có công nhân, nông dân và các tầng lớp giai cấp khác, dưới ách thống trị của bọn đế quốc thực dân đã không còn bất kỳ một quyền nào cả kể cả quyền sống. Theo Hồ Chí Minh, “Người Đông Dương không được học, đúng thế, bằng sách vở và bằng diễn văn, nhưng người Đông Dương nhận sự giáo dục bằng cách khác. Đau khổ, nghèo đói và sự đàn áp tàn bạo là những người thầy duy nhất của họ. Nếu những người xã hội chủ nghĩa lơ là việc giáo dục, thì giai cấp tư sản thực dân và bản xứ - bọn quan lại - cứ phụ trách giáo dục bằng phương pháp của chúng. Người Đông Dương tiến bộ một cách rất màu nhiệm và khi thời cơ cho phép họ sẽ biết tỏ ra xứng đáng với những người thầy của họ”[67, 28]. Trong bài Đông Dương khổ nhục, viết năm 1928, Hồ Chí Minh tố cáo rằng, ở Đông Dương giết người là việc xảy ra hằng ngày, “Từ người đại diện tối cao của Nhà nước chính quốc đến những tên thực dân bình thường, ai nấy cũng tự ý và đua nhau giết hại, bóc lột đến tận xương tuỷ dân tộc đã bị chinh phục này... đế quốc Pháp với quân lính của chúng đã coi tính mạng người Đông Dương như cỏ rác, muốn thì chúng tước đoạt của cải, thích thì chúng bắn giết”[68, 363-364]. Chính sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo của của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết. Vì vậy mà phong trào cách mạng ngày càng lớn mạnh: công nhân bãi công, học sinh bãi khoá, nông dân đòi ruộng đất, nhà buôn nhỏ đóng cửa hàng, nhân dân cả nước đang vùng dậy chống bọn đế quốc. Phong trào
cách mạng An Nam làm cho đế quốc Pháp phải run sợ. Cho nên, một mặt chúng dùng bọn phong kiến An Nam, bọn đại tư sản phản cách mạng và bọn địa chủ để áp bức, bóc lột nhân dân An Nam. Mặt khác, chúng khám xét nhà cửa, bắt bớ, giam cầm và giết hại những người cách mạng An Nam; chúng hy vọng dùng khủng bố trắng tiêu diệt cách mạng An Nam. Song khủng bố cũng không làm nhân dân ta phải khiếp sợ. Bởi vì, sự áp bức càng đè nặng lên vai dân chúng bao nhiêu thì dân chúng chống lại càng nhiều bấy nhiêu. Nhất là,
“Trong những năm gần đây, dân bản xứ bị bóc lột ngày một thêm tệ nên họ đã chống chủ nghĩa đế quốc quyết liệt”[68, 364]. Điều đó chứng tỏ rằng, “bây giờ căm hờn đã sôi sục trong lòng những người nô lệ và từ đây chủ nghĩa đế quốc Pháp không còn có thể bóc lột dân chúng Đông Dương mà không gặp những cuộc đấu tranh một sống một chết”[68, 364].
Vậy là, bị khuất phục bằng vũ lực, bắt buộc phải chịu đựng bao nhiêu điều nhục nhã, bị áp bức, bóc lột, nhân dân Đông Dương không thể chịu ngồi yên mà không phá gông xiềng của chủ nghĩa đế quốc Pháp. Sự căm hờn đã sục sôi thì dù bọn đế quốc có đề phòng như thế nào đi nữa, thì nạn nghèo khổ và sự bóc lột vẫn cứ thúc đẩy người dân Đông Dương làm cách mạng, để đạp đổ ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đế quốc. Theo Hồ Chí Minh, “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”[67, 28].
Thứ hai, Hồ Chí Minh nhận thức rằng sự áp bức của đế quốc thực dân đối với thuộc địa nặng nề hơn so với nhân dân lao động ở chính quốc. Trong bài Mấy ý nghĩ về vấn đề thuộc địa, đăng trên báo Nhân đạo, ngày 25/5/1922, Người chỉ rõ: “Trong những luận cương về vấn đề thuộc địa, Lênin đã tuyên bố rõ rệt rằng “nhiệm vụ của công nhân ở các nước đi chiếm thuộc địa là phải giúp đỡ một cách tích cực nhất phong trào giải phóng của các nước phụ
thuộc”. Muốn thế, công nhân ở chính quốc cần phải biết rõ thuộc địa là cái gì, phải biết những việc gì đã xảy ra ở thuộc địa, biết rõ nỗi đau khổ - hàng nghìn lần đau khổ hơn công nhân ở chính quốc - những người anh em của họ, những người vô sản thuộc địa (tác giả nhấn mạnh-PQT) phải chịu đựng”[67, 63]. Theo Người, chế độ thực dân là hình thức tha hoá tàn bạo nhất, là kết quả tất yếu của sự phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; nhân dân thuộc địa, vừa phải chịu sự nô dịch, đè nén bằng lưỡi lê của nền văn minh, vừa bằng cây thánh giá của giáo hội sa đọa làm ô danh chúa. Trên thế giới, không có dân tộc nào bị đàn áp, hành hạ như người dân thuộc địa. Tại Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế nông dân, Hồ Chí Minh đã nêu rõ nỗi thống khổ của nông dân trong các thuộc địa của Pháp, họ “bị hai tầng bóc lột: vừa như những người vô sản, vừa như những người bị mất nước”[67, 208]. Người còn đưa ra hình ảnh so sánh giữa nông dân ta với nông dân Nga để khắc họa địa vị xã hội của nông dân trong xã hội Việt Nam thuộc địa: trong khi nông dân Nga giống như một người “ngồi chễm chệ trong chiếc ghế bành”, thì nông dân An Nam lại giống như một người “bị trói vào một chiếc cột, đầu ngược xuống đất”; họ “không phải chỉ bị trói vào một chiếc cột”, mà họ còn “bị đóng đinh câu rút bởi bốn thế lực liên hợp là: Nhà nước, tên thực dân, Nhà thờ và tên lái buôn”[67, 211].
Còn khi so sánh sự bóc lột của bọn đế quốc đối với nông dân ở chính quốc và thuộc địa, thì Người khẳng định rằng “nông dân ở các thuộc địa là những người bị bóc lột và bị áp bức nhiều hơn (tác giả nhấn mạnh-PQT)”[67, 212].
Và dù là nông dân An Nam hay nông dân ở các thuộc địa khác thì họ đều bị bọn đế quốc thực dân và tay sai của nó bóc lột một cách thậm tệ. Trong bài Nông dân Bắc Phi, Hồ Chí Minh viết: “Tình cảnh nông dân các thuộc địa đó như thế nào? Thật là khủng khiếp. Khó có thể nói được rằng ai trong số họ:
người An Nam ở Đông Dương, người da đen ở Cônggô hay là Xênêgan, hay là
người bản xứ ở Bắc Phi - bị bóc lột nhiều hơn. Giữa những người ấy có một cái chung: 1- Tất cả họ bị dồn đến tình cảnh con vật thồ. 2- Họ không chỉ bị những kẻ chiến thắng bóc lột, mà còn bị những người bản xứ bóc lột nữa”[67, 257].
Và “Cũng như những người anh em của họ là nông dân An Nam, nông dân châu Phi phải chịu cảnh cơ cực không thể chịu nổi, phải lao dịch liên miên và phải gánh những thứ thuế má nặng nề. Sự cùng khổ của họ không sao tả xiết”[67, 286]. Rõ ràng, vì bị áp bức nặng nề như vậy nên nhân dân thuộc địa, trong đó đông đảo nhất là công nhân, nông dân... đang tiềm ẩn một sự phản kháng mãnh liệt và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến.
Thứ ba, Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng quyết định của thuộc địa đối với sự tồn tại của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Ngay vào cuối năm 1920, trong Lời phát biểu tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng xã hội Pháp, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Đảng xã hội cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức... Đảng hứa một cách cụ thể rằng từ nay Đảng sẽ đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa”[67, 23]. Song, Người lấy làm tiếc về tình trạng thờ ơ của giai cấp vô sản chính quốc đối với các thuộc địa vẫn hết sức phổ biến, như Người đã viết trong bài Mấy ý nghĩ về vấn đề thuộc địa, đăng trên báo Nhân đạo (25/5/1922): “Tiếc thay, một số đông chiến sĩ vẫn còn tưởng tượng rằng, một thuộc địa chẳng qua chỉ là một xứ dưới đầy cát và trên là mặt trời, vài cây dừa xanh với mấy người khác màu da, thế thôi. Và họ hoàn toàn không để ý gì tới”[67, 63].
Từ sự phân tích ảnh hưởng của các thuộc địa đối với sự sống còn và phát triển của chủ nghĩa tư bản, đế quốc, Người cho rằng: “Hiện nay, tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ mạt cho đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển
những binh lính người bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng của nó”[67, 243]. Tại phiên họp lần thứ 8 Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh sử dụng hình ảnh con rắn độc để minh họa một cách sinh động về vai trò quan trọng của các thuộc địa đối với sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, đế quốc.
Người khẳng định: “hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng”[67, 274]. Theo Hồ Chí Minh, nếu chúng ta muốn đánh đổ các nước đế quốc chủ nghĩa, thì trước hết chúng ta phải làm cho chúng không còn thuộc địa nữa; còn khinh thường cách mạng thuộc địa thì mới chỉ là “đánh chết rắn đằng đuôi”[67, 274].
Để minh chứng rõ hơn cho vai trò quan trọng của thuộc địa đối với bọn đế quốc Pháp, Hồ Chí Minh đã đưa ra dẫn chứng cụ thể: “Không kể những
“khu vực uỷ trị” mới, lấy được từ sau chiến tranh, nước Pháp có: ở châu á, 450.000 km2; ở châu Phi, 3.541.000 km2; ở châu Mỹ, 108.000 km2; ở châu Đại Dương, 21.000 km2. Tổng cộng: 4.120.000 km2 (gần gấp tám lần diện tích nước Pháp) với một dân số là 47.000.000 người”[67, 62]. Cũng theo Hồ Chí Minh, “Trong số 150 trung đoàn của quân đội Pháp, có 10 trung đoàn người da trắng ở các thuộc địa, nghĩa là những người nửa bản xứ; 30 trung đoàn người châu Phi và 39 trung đoàn người bản xứ các thuộc địa khác. Như vậy, một nửa số quân đội Pháp là tuyển mộ ở các thuộc địa”[67, 201-202]. Còn trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, “hơn một triệu nông dân và công nhân thuộc địa đã bị đưa sang châu Âu để chém giết nông dân và công nhân da trắng. Vừa rồi, người ta đã đem lính bản xứ bao vây lính Pháp ở miền Ruya, và phái lính
pháo thủ thuộc địa đi dẹp những người Đức bãi công. Non một nửa quân đội Pháp là người bản xứ, ước chừng 300.000 người”[67, 246].
Năm 1924, bằng dẫn chứng cụ thể, sinh động hơn, Người cho thấy rõ hơn tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa (xem bảng1):
Các nước
Chính quốc Thuộc địa
Diện tích Km2
Dân số Diện tích
Km2 Dân số
Anh 151.000 45.500.000 34.910.000 403.600.000 Pháp 536.000 39.000.000 10.250.000 55.600.000 Mỹ 9.420.000 100.000.000 1.850.000 12.000.000 Tây Ban Nha 504.500 20.700.000 371.600 853.000 ý 286.600 38.500.000 1.460.000 1.623.000 Nhật Bản 418.000 57.070.000 288.000 21.249.000 Bỉ 29.500 7.642.000 2.400.000 8.500.000 Bồ Đào Nha 92.000 5.545.000 2.062.000 8.738.000 Hà Lan 83.000 6.700.000 2.046.000 48.030.000
(Bảng 1)
Qua những con số thống kê xác thực của Hồ Chí Minh về các nước đế quốc và thuộc địa của nó, đã cho thấy một sự thật khủng khiếp: 9 nước với tổng số dân 320.657.000 người và với diện tích 11.407.600 km2 bóc lột các nước thuộc địa gồm hàng trăm dân tộc với số dân 560.193.00 người và với diện tích 55.637.000 km2. Toàn bộ lãnh thổ của các nước thuộc địa rộng gấp 5 lần lãnh thổ của các nước chính quốc, còn số dân của các chính quốc chưa bằng 3/5 số dân của các nước thuộc địa. Và theo Hồ Chí Minh, “Nếu tính riêng những cường quốc đế quốc lớn nhất, thì những con số này lại càng có sức thuyết phục hơn. Số dân của các thuộc địa Anh đông gấp hơn 8 lần rưỡi số dân
nước Anh và đất đai của các thuộc địa Anh rộng gấp gần 252 lần đất đai của nước Anh. Còn nước Pháp thì chiếm một số đất đai rộng gấp 19 lần nước Pháp; và số dân ở các thuộc địa Pháp đông hơn số dân nước Pháp 16.600.000 người”[67, 277].
Rõ ràng, chủ nghĩa đế quốc hiện đại đặt nền móng trên sự bóc lột hàng triệu người lao động ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Bởi thế, “nó chỉ tan rã hoàn toàn và vĩnh viễn khi nào chúng ta phá bỏ được nền móng đó của lâu đài đế quốc chủ nghĩa”[68, 126].
Thứ tư, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được tiềm năng to lớn của cách mạng thuộc địa. Nhờ sinh trưởng ở một nước thuộc địa, lại được trải qua thực tiễn phong phú của cuộc sống ở thuộc địa Việt Nam cũng như nhiều thuộc địa khác nên Hồ Chí Minh sớm có cái nhìn toàn diện và sâu sắc về vấn đề dân tộc thuộc địa, thấy được sức mạnh vĩ đại trong các dân tộc thuộc địa. Ngay từ những năm đầu thập kỷ thứ 3 của thế kỷ XX, Người đã nhận thức rõ tiềm năng cách mạng của các dân tộc bị áp bức là rất to lớn, nó sẽ bùng lên mạnh mẽ, hình thành một lực lượng khổng lồ một khi họ được giác ngộ và tổ chức. Năm 1921, trong bài Phong trào cộng sản quốc tế, đăng trên tạp chí La Revue Communiste, số 15, Hồ Chí Minh đã viết: “Người châu á - tuy bị người Phương Tây coi là lạc hậu - vẫn hiểu rõ hơn hết sự cần thiết phải cải cách toàn bộ xã hội hiện tại”[67, 35]. Người tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân thuộc địa sẽ vùng lên đánh đổ ách thống trị ngoại bang và dự báo: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ”[67, 36].
Đối với cách mạng Đông Dương và Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận định:
“Nói rằng Đông Dương gồm hai mươi triệu người bị bóc lột, hiện đã chín muồi