Chương 3 Giá trị của quan điểm Hồ Chí Minh
3.1. Giá trị lý luận của quan điểm Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã có nhiều cống hiến hết sức to lớn cho cách mạng Việt Nam và thế giới. Một trong những cống hiến lớn lao nhất của Người đó là về mặt tư tưởng lý luận cách mạng, khoa học. Quan điểm của Người về cách mạng giải phóng dân tộc trong những năm 1920 - 1930 có giá trị lý luận hết sức sâu sắc, thể hiện qua những cống hiến của Người về mặt lý luận cho cách mạng Việt Nam và thế giới.
3.1.1. Hình thành và đặt cơ sở tư tưởng lý luận cho đường lối cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
* Thứ nhất, thể hiện qua sự nhận thức về vai trò quan trọng của lý luận cách mạng
Việt Nam là một quốc gia dân tộc hình thành từ rất sớm. Lịch sử đấu tranh chống kẻ thù xâm lược trong hàng nghìn năm của dân tộc đã chứng minh rằng nhân dân ta có một nghệ thuật đánh giặc ở trình độ cao. Song, từ cuối thế kỷ XIX, không bao lâu sau khi chủ nghĩa tư bản phương Tây nổ súng xâm lược Việt Nam, nước ta đã trở thành thuộc địa của Pháp. Một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến thảm kịch đó là vì trong “suốt cuộc chống Pháp xâm
lược từ giữa thế kỷ XIX đến phong trào Cần Vương chấm dứt thất bại, ta không có lý luận nào... cho có đầu đuôi có căn cứ để đánh đuổi thực dân Pháp”[36, 83-84]. Có thể nói, cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước ở nước ta trong suốt mấy thập kỷ đó thực chất là cuộc khủng hoảng thiếu một lý luận khoa học để đánh đổ đế quốc thực dân Pháp - kẻ thù mới của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước và sau một thập kỷ lăn lộn, Người đã tìm thấy chân lý cách mạng cho dân tộc Việt Nam. Và trong cuộc vận động cách mạng mà Người đề ra từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, “thì vấn đề lý luận... được nêu lên trước hết”[36, 84]. Qua thực tiễn hoạt động cách mạng, qua các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh trong thời kỳ 1920 - 1930, chúng ta thấy Người rất quan tâm đến vấn đề lý luận cách mạng.
Đánh giá phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trong tất cả các thuộc địa, ở cái xứ Đông Dương già cỗi kia cũng như ở xứ Đahômây trẻ trung này, người ta không hiểu đấu tranh giai cấp là gì, lực lượng giai cấp vô sản là gì cả,... Trước con mắt người dân bản xứ, chủ nghĩa bônsêvích - danh từ này vì thường được giai cấp tư sản dùng đến luôn, nên đặc sắc hơn và mạnh nghĩa hơn - có nghĩa là: hoặc sự phá hoại tất cả, hoặc sự giải phóng khỏi ách nước ngoài. Nghĩa thứ nhất gắn danh từ ấy làm cho quần chúng vô học và nhút nhát xa lánh chúng ta; nghĩa thứ hai thì dẫn họ đến chủ nghĩa quốc gia. Cả hai điều đó đều nguy hiểm cả... Nói chung, quần chúng căn bản là có tinh thần nổi dậy, nhưng còn rất dốt nát. Họ muốn giải phóng, nhưng họ chưa biết làm cách nào để đạt được mục đích ấy”[67, 64]. Mặt khác, theo Người, dân khổ quá hay làm bạo động, như An Nam ở Trung Kỳ kháng thuế, Hà Thành đầu độc, Nam Kỳ phá khám... nhưng đều bị thất bại vì không có “chủ nghĩa”, không có “kế hoạch”, chưa có lý luận, đường lối và phương
pháp cách mạng đúng đắn; lại không hiểu biết tình hình thế giới, không biết so sánh lực lượng ta và lực lượng địch, không biết nắm thời cơ... Vì vậy, những người cách mạng “phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa (tác giả nhấn mạnh- PQT) cho dân hiểu”[68, 267].
Từ rất sớm, ngay khi về Quảng Châu (Trung Quốc), Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò quan trọng hàng đầu của lý luận cách mạng và bằng hành động thiết thực của mình, Người tìm cách tuyên truyền lý luận cách mạng một cách hiệu quả. Theo Hồ Chí Minh, “những người cách mạng Nga đã khá nhanh chóng tìm thấy con đường đúng đắn. Đó là con đường xây dựng một đảng thống nhất được vũ trang bằng lý luận cách mạng đúng đắn. Muốn giải phóng Tổ quốc mình, chúng ta cũng phải đi theo con đường ấy. Và muốn thế phải có kiến thức, trước hết là kiến thức chính trị. Vì vậy, tôi đề nghị công việc đầu tiên của chúng ta là mở ngay ở Quảng Châu này một lớp huấn luyện chính trị cho thanh niên cách mạng”[9, 130-131]. Năm 1925, Trường huấn luyện chính trị được thành lập, Hồ Chí Minh vừa là người phụ trách vừa là thầy giảng chính cho các lớp học. Chương trình huấn luyện rất rộng, nhưng theo Người, trước hết phải làm cho các học viên “nắm vững lý luận cách mạng đúng đắn”, bởi vì
“Người cách mạng nắm được lý luận cách mạng đúng đắn như người đi trong đêm tối có đuốc soi đường”[9, 131].
Đường cách mệnh là cuốn sách được xuất bản trên cơ sở tập hợp những bài giảng của Người trong các lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu. Cuốn sách chứa đựng nhiều luận điểm cách mạng của Hồ Chí Minh, trong đó, vai trò của lý luận cách mạng là một trong những nội dung được quan tâm nhất. Nói về tầm quan trọng của lý luận cách mạng, ngay trang đầu cuốn Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã nêu lên câu nói bất hủ của Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động... chỉ có theo lý luận cách mệnh,
đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”[68, 259].
Trong mục nói về lý do viết sách này, Người chỉ rõ rằng, lý luận và lịch sử cách mệnh có nhiều sách lắm; Pháp nó sợ nên cấm chúng ta học, cấm chúng ta xem cho nên đồng bào ta đối với hai chữ “cách mệnh” còn lờ mờ lắm; có người biên chép đề xướng ra một chút lại làm một cách rất hồ đồ, hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức, hoặc làm cho dân quên tính ỷ lại mà quên tính tự cường. Cho nên, mục đích của sách này là “để nói cho đồng bào ta biết rõ: (1) Vì sao chúng ta muốn sống thì phải làm cách mệnh. (2) Vì sao cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc một hai người.
(3) Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. (4) Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ. (5) Ai là bạn? Ai là thù ta? (6) Cách mệnh thì phải làm thế nào?”[68, 261-262]. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, chính nhờ lý luận cách mạng thâm nhập vào quần chúng đã làm cho phong trào đấu tranh của họ thêm nhiều sức mạnh mới và họ đã có những sáng tạo bất ngờ, làm cho thực dân Pháp vô cùng khiếp sợ vì “Cái mà bọn đế quốc thường sợ hãi đó là sự tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản”[68, 361].
Như vậy, nhờ nhận thức được tầm quan trọng của lý luận đối với phong trào cách mạng, nên ngay khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn theo học thuyết Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tích cực chuẩn bị lý luận khoa học để truyền bá vào Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị thành lập Đảng ta.
* Thứ hai, đề cập đến một số vấn đề có tính nguyên tắc của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên đã đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới và đi theo Quốc tế Cộng sản. Trên cơ sở lý luận của học thuyết Mác - Lênin, thực tiễn cách mạng Việt Nam và
thế giới, Người đã từng bước đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, vận dụng và phát triển sáng tạo con đường đó vào điều kiện cụ thể của nước ta, hình thành những luận điểm cơ bản về cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Qua các tác phẩm của Người trong thời kỳ này, chúng ta thấy quan điểm cách mạng và lý luận về con đường cách mạng - con đường dẫn đến độc lập, tự do của Hồ Chí Minh thể hiện khá hoàn chỉnh. Trước hết, trên cơ sở vạch rõ bản chất phản động của bọn đế quốc thực dân, Người chỉ rõ chúng là kẻ thù không chỉ của nhân dân Việt Nam, các dân tộc thuộc địa mà còn là kẻ thù chung của nhân dân lao động và bị áp bức trên toàn thế giới.
Từ đó, Người xác định tính chất của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước hết là dân tộc cách mạng nhằm đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập, tự do, sau đó tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Người còn chỉ rõ mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa; tính độc lập và khả năng thắng lợi trước của cách mạng thuộc địa; cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của tất cả dân chúng được giác ngộ và tổ chức, do giai cấp công nhân lãnh đạo, thông qua đội tiền phong là đảng cộng sản; phải đoàn kết với các lực lượng cách mạng quốc tế... Đây chính là những nội dung có tính nguyên tắc trong đường lối cách mạng giải phóng dân tộc.
Những luận điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc hình thành trong thời kỳ 1920 - 1930 là nội dung tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể Việt Nam, trở thành nội dung cơ bản của con đường cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Quan điểm đó đã được thực tiễn lịch sử cách mạng nước ta kiểm nghiệm và chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Những luận điểm có tính nguyên tắc đó được hình thành đã đánh dấu sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc. Có thể nói, “Công lao vĩ đại đầu tiên của Hồ Chủ tịch là đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” [106, 49].
* Thứ ba, những luận điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX là cơ sở lý luận cho đường lối giải phóng dân tộc Việt Nam
Trên cơ sở những luận điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh nêu ra trong những năm 20 của thế kỷ XX, Đảng ta đã từng bước hiện thực hoá một cách sinh động trong đường lối đấu tranh cách mạng của Việt Nam. Ngay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (được thông qua tại Hội nghị hợp nhất đầu năm 1930), đã cụ thể hoá một cách sinh động những luận điểm cách mạng mà Hồ Chí Minh nêu ra trong thời kỳ vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Phân tích sâu sắc tình hình kinh tế, xã hội, giai cấp trong xã hội Việt Nam thuộc địa, Hồ Chí Minh vạch ra đường lối chiến lược cho cách mạng Việt Nam là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Đồng thời, Người ta xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam về phương diện chính trị là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, trong đó, nhiệm vụ chủ yếu là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông. Về phương diện kinh tế, nhằm vào đối tượng cách mạng là bọn đế quốc xâm lược, kẻ thù của dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương: “Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho
dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ”[69, 1-2]. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, thì trong giai cấp địa chủ phong kiến chỉ đánh đổ bọn đại địa chủ đứng hẳn về phe đế quốc, làm tay sai cho đế quốc và bọn vua quan trong bộ máy Nam Triều, chứ chưa phải là toàn bộ giai cấp địa chủ nói chung. Người chủ trương cô lập tầng lớp đại địa chủ, còn tầng lớp trung, tiểu địa chủ cũng bị bọn đế quốc thực dân chèn ép, họ cũng có ít nhiều tinh thần phản kháng đế quốc, nên cách mạng có thể tranh thủ được họ vào cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc. Đây là chủ trương hết sức mềm dẻo, linh hoạt của Hồ Chí Minh nhằm tập hợp hết thảy mọi lực lượng mà cách mạng có thể tập hợp được, tránh tư tưởng hẹp hòi, cô độc. Chủ trương đó vừa động viên được lực lượng hùng hậu nhất là giai cấp nông dân hăng hái tham gia cách mạng, đồng thời cách mạng vẫn có thể tranh thủ, lôi kéo được bộ phận trung, tiểu địa chủ để tập trung giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội là mâu thuẫn dân tộc. Có thể nói, mặc dầu còn vắn tắt nhưng Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng đã vạch ra được những nội dung cơ bản của đường lối cách mạng nước ta, giải quyết cả hai vấn đề dân tộc và dân chủ, trong đó coi giải phóng dân tộc là nhiệm vụ chủ yếu là một quan điểm đúng đắn.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà có lúc quan điểm đó chưa thực sự được phát huy mạnh mẽ. Song, thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá chính xác nhất tính đúng đắn của nó. Trước hoàn cảnh lịch sử mới, Đảng ta đã có quyết định chiến lược đúng đắn giương cao ngọn cờ giải phóng giải phóng dân tộc giành độc lập, tự do cho Tổ quốc lên hàng đầu. Quan điểm đó được thể hiện dứt khoát trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (5/1941), rằng: “cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân
quyền, cuộc cách mạng giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”, vậy thì cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”[21, 119]. Và Đảng ta khẳng định rõ, trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc; nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phân giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Sự thay đổi chiến lược cách mạng này của Đảng đã đánh dấu sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
Từ một đường lối chiến lược đúng đắn, Đảng ta đã tập hợp được lực lượng cách mạng đông đảo nhằm mục tiêu hàng đầu là giải phóng dân tộc. Đây chính là sự tiếp nối quan điểm mà Hồ Chí Minh đã nêu ra trong thời kỳ vận động thành lập Đảng. Đó là nhân tố quyết định đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
3.1.2. Làm phong phú học thuyết Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc
* Một là, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trên cơ sở thực tiễn
Từ những thế kỷ trước, khi khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập đến mối quan hệ giữa giải phóng giai cấp vô sản với giải phóng dân tộc. Sống và hoạt động trong thời đại chủ nghĩa tư bản đang lên, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Do đó, Mác và ăng-ghen đặt vấn đề dân tộc phụ thuộc vào vấn đề giai cấp. Quan điểm này thể hiện rõ trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình