Nhân tố khách quan

Một phần của tài liệu Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực giảng dạy tại trường đại học kinh tế ĐHQGHN luận văn ths kinh doanh và quản lý 60 34 05 pdf (Trang 29 - 33)

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo và phát triển NNL giảng dạy

1.3.2. Nhân tố khách quan

1.3.2.1 Hợp tác quốc tế trong việc đào tạo và phát triển nguồn lực giảng dạy trong các trường đại học

Toàn cầu hóa là dòng chảy xuyên biên giới của vốn, công nghệ, hàng hóa dịch vụ, con người,... Dòng chảy này thực hiện được trước hết vì sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, liên lạc và tiếp nữa là quá trình tự do hóa thương mại như một làn sóng mới trong cảu cách kinh tế của các quốc gia. Công cuộc phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển đã chỉ ra vai trò to lớn của việc thu hút đầu tư nước ngoài và qua đó thu hút công nghệ sản xuất, dịch vụ và quản lý từ các nền kinh tế phát triển. Các đơn vị liên doanh với nước ngoài hoặc 100% vốn nước ngoài đã đem đến các nước phát triển những yếu tố mới, tạo ra những bước tiến quan trọng trong phát triển kinh tế của các nước

đang phát triển. Vì lý do đó mà chính phủ các nước đang phát triển luôn quan tâm đến việc tạo ra những điều kiện ưu đãi và môi trướng đàu tư thuận lợi cho các công ty nước ngoài đầu tư vào các hoạt động ở nước mình, qua đó nâng cao chất lượng và năng suất lao động của đất nước mình, chuyển giao và tiếp nhận các công nghệ mới, hiện đại.

Các hoạt động đào tạo dù mang những yếu tố đặc thù riêng bởi đối tượng tác động là con người, song cũng vẫn mang những điểm chung của quá trình phát triển. Nâng cao chất lƣợng đào tạo thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế trong đào tạo luôn đƣợc coi là những biên pháp quan trọng trong chiến lƣợc phát triển giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học ở nước ta.

Quá trình toàn cầu hóa với sự xuất hiện của các đơn vị kinh tế 100% vốn nước ngoài hay các đơn vị liên doanh liên kết đã tạo áp lực về NNL đƣợc đào tạo đƣợc đáp ứng các yêu cầu sản xuất dịch vụ theo chuẩn nước ngoài. Đây cũng là một yếu tố tích cực thúc đẩy các đơn vụ đào tạo trong nước tìm kiếm, xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo theo chuẩn nước ngoài. Trong bối cảnh đó, sự ra đời của các chương trình hợp tác đào tạo quốc tế giữa các đơn vị đào tạo trong nước và các trường đại học, các tổ chức đào tạo nước ngoài là kết quả tất yếu của quá trình phát triển. Thực tế diễn ra của quá trình toàn cầu hóa với sự lớn mạnh của các tập đoàn đa quốc gia, sự thâm nhập của các công ty nước ngoài vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp và đặc biệt, sự kiện Việt Nam gia nhập WTO gần đây vừa tạo thêm động lực thúc đẩy cho quá trình hợp tác đào tạo, vừa minh chứng cho sự đúng đắn và hiệu quả hơn của chúng đối với sự phát triển.

Xét từ khía cạnh người học, cùng với quá trình đổi mới kinh tế trong xu hướng hội nhập quốc tế, thu nhập của người dân cũng được tăng lên, tạo điều kiện cho họ có thể tìm kiếm những cơ hội đào tạo tốt hơn cho con em. Ngoài ra, Việt Nam với truyền thống hiếu học lâu đời, cộng với áp lực dân số trẻ và đông là cho NNL chịu sự cạnh tranh khốc liệt hơn, tương tụ như nhiều nước Châu Á khác, các gia đình thường sẵn sàng và có nhu cầu đầu tƣ vào giáo dục cho con cái, để mong con mình có cuộc sống tốt hơn.

1.3.2.2 Các chính sách của chính phủ, quốc gia đối với đào tạo và phát triển NNL

NNL giảng dạy trong các trường đại học là nguồn vốn con người vô cùng quý giá. Đảng ta chỉ rõ, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, con người là nguồn lực quan trọng nhất. Để sử dụng và phát huy năng lực sáng tạo của nhân lực giảng dạy trong các trường đại học cần đề ra chiến lược đúng đắn có tham khảo kinh nghiệm của các nước, trong đó đặc biệt coi trọng cơ chế pháp lý nhân lực khoa học công nghệ nói chung và nhân lực giảng dạy trong các trường đại học nói chung.

Xác định rõ vai trò quan trọng của đội ngũ giảng viên trong các trường đại học, các cấp lãnh đạo từ Nhà nước, Bộ cho đến cấp trường đều luôn quan tâm đến công tác bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy nhất là đối với các trường đại học khối kinh tế. Điều này đã được thể hiện trong các văn bản, bài phát biểu của lãnh đạo ngành giáo dục đại học: "Chú trọng đào tạo lại, bồi dƣỡng cán bộ giảng dạy, đặc biệt đối với cán bộ giảng dạy các ngành kinh tế, kinh doanh, quản trị để có thể đổi mới nội dung giảng dạy cho phù hợp với kinh tế thị trường". Đề án "Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020" cũng đưa ra các phương hướng nhằm: "Xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý GD đại học có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức và lương tâm nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn cao, phong cách quản lý và giảng dạy tiên tiến, hiện đại". Về cơ bản, quan điểm chỉ đạo của các cấp lmnh đạo nhà nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo đều coi trọng việc đào tạo và phát triển đội ngũ giảng viên một cách toàn diện khi triết lý giáo dục thế kỷ XXI có những biến đổi to lớn, khi chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đm xác định đến 2020, cần đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp tiên tiến .

1.3.2.3 Yếu tố kinh tế - xã hội

Trong giai đoạn kinh tế phát triển, các trường đại học công lập đang ngày có nhu cầu mở rộng quy mô đào tạo do vậy cần phát triển đội ngũ NNL giảng dạy, tăng cường đào tạo và phát triển hơn nữa NNL này. Hơn nữa việc mở rộng quy mô và chất lượng đào tào của các ngành trong trường kinh tế, đòi hỏi các trường phải tuyển thêm một đội ngũ NNL giảng dạy mới có năng

lực, có trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ và có kiến thức về sƣ phạm nhằm đáp ứng nhu cầu học của sinh viên và mục tiêu đào tạo của trường đặt ra.

Ngược lại, khi kinh tế suy thoái, bất ổn và có chiều hướng đi xuống, các trường đại học khối kinh tế, số lượng sinh viên đăng ký học ngày càng giảm. Các trường đại học vẫn phải duy trì một đội ngũ NNL giảng dạy có trình độ, mặt khác cần phải giảm các chi phí đào tạo.

Ở Việt Nam, cùng với nhu cầu ngày càng lên cao, các trường đại học thành lập ngày một nhiều, đặc biệt là các trường đại học khối kinh tế, các trường đã có xu hướng thu hút NNL giảng dạy có chất lượng cao và đưa ra các biện pháp đãi ngộ như tăng lương, tăng phúc lợi... Rõ ràng bối cảnh kinh tế đã có ảnh hưởng đến công tác đào tạo và phát triển NNL giảng dạy của các trường đại học khối kinh tế.

1.3.2.3. Tình hình đội ngũ giảng viên đại học của Việt Nam

Trong mấy chục năm qua các trường đại học của ta đã có những bước tiến vượt bậc. Giáo dục đại học đã có những đóng góp đáng kể trong công tác đào tạo cán bộ cho sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ giảng viên đại học đã trưởng thành nhanh chóng, trong đó có một số cán bộ xuất sắc, đạt trình độ quốc tế. Tuy nhiên, bước vào giai đoạn mới và trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đội ngũ giảng viên của ta còn có nhiều nhược điểm cả về số lƣợng và chất lƣợng.

Cả nước ta có khoảng 22000 giảng viên đại học và cao đẳng, trong đó chỉ có khoảng 3000 (chiếm 13,6%) có trình độ trên đại học. Số người có học vị tiến sĩ chỉ vào khoảng trên 200 (chiếm gần 1%) [15, Tr. 3-4].

Các tỷ lệ trên đây rất thấp so các nước. Và như vậy là, sắp sang đến thế kỉ XXI rồi mà tình trạng người chỉ có trình độ đại học dạy đại học đang còn phổ biến trong các trường đại học của ta. Ở các nước tiên tiến trên thế giới và ở nhiều đại học trong khu vực, phần lớn giảng viên đại học có trình độ trên đại học. Đội ngũ giảng viên đại học của họ không những hơn ta về chất lƣợng mà còn nhiều gấp đôi, gấp ba ta về số lƣợng, trên cùng số đầu sinh viên. Ở ta còn một tình hình đã ở trên mức báo động là tuổi của giáo viên quá cao. Hầu hết các giáo sư đã sắp đến tuổi nghỉ hưu. Số giảng viên

đại học ở tuổi dưới 35 chỉ chiếm vài phần trăm. Với tình hình này chỉ trong vòng mười năm nữa, các trường đại học của ta sẽ thực sự bị khủng hoảng về đội ngũ giảng dạy. Do vậy, vấn đề rất cấp bách đối với nước ta là phải nhanh chóng nâng cao trình độ giảng viên, tăng cường mở rộng và nâng cao chất lƣợng đào tạo cán bộ có trình độ trên đại học, đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, khẩn trương đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ và giỏi, có những chính sách đặc biệt để khuyến khích nghề dạy học, ngành sƣ phạm, tạo những điều kiện thuận lợi cho việc du học và giao lưu quốc tế.

Một phần của tài liệu Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực giảng dạy tại trường đại học kinh tế ĐHQGHN luận văn ths kinh doanh và quản lý 60 34 05 pdf (Trang 29 - 33)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(95 trang)