B- Giai đoạn khu nuôi trồng thủy sản đi vào hoạt động
3.3 Đánh giá tác động
Các tác nhân ô nhiễm có thể tác động đến con người trong vùng bị ảnh hưởng, đặc biệt là các đối tượng trực tiếp tiếp xúc với các tác nhân này. Mức độ tác động phụ thuộc vào nồng độ các chất ô nhiễm và thời gian tiếp xúc.
3.3.1 Tác động của các chất gây ô nhiễm không khí 3.3.1.1 Bụi
Mức độ tác hại của bụi tùy thuộc vào nồng độ bụi trong không khí và thời gian tiếp xúc. Hai tác hại chủ yếu có thể gây ra đối với sức khỏe con người là:
- Bệnh bụi phổi: bệnh này có khả năng làm sơ hóa phổi và làm giảm chức năng hô hấp. Trong giai đoạn xây dựng, bệnh bụi phổi thường gặp là bệnh silicose (do ô nhiễm bụi silic gây ra);
- Các bệnh khác như: Bệnh đường hô hấp (viêm mũi, họng, khí quản,...), bệnh ngoài da (gây kích thích da, sinh mụn nhọt,...), bụi bắn vào mắt gây đau mắt kích thích màng tiếp hợp lâu dần gây viêm màng tiếp hợp làm giảm khả năng thị giác.
3.3.1.2 Các khí ô nhiễm a. Khí CO
CO là một chất khí, không mùi, không màu và có tỷ trọng gần bằng tỷ trọng của không khí (1,25g/l ở điều kiện chuẩn), CO có độ hòa tan trong nước kém. Đây là một khí
độc, phần lớn tác động lên động vật máu nóng. Vì vậy, là chất độc cho con người ở nồng độ cao CO gây thay đổi sinh lý và có thể gây chết người (ở nồng độ >750ppm). Thực vật tiếp xúc ở nồng độ cao (100-1000ppm) sẽ bị rụng lá, xoắn quăn, cây non chết yểu. Do đó, sự hiện diện CO trong không khí ở nồng độ cao sẽ là tác nhân gây tác hại đến sức khỏe con người và động vật máu nóng.
b. Khí SO2
Khí SO2 là một chất khí không màu, mùi khó chịu, hăng cay khi nồng độ trong khí
quyển là 1ppm. Khí sunfua được sinh ra từ quá trình đốt cháy các nhiên liệu có chứa lưu huỳnh (nhà máy nhiệt điện, dầu DO…) các quá trình chế biến dầu mỏ, tinh luyện quặng đồng, sản xuất xi măng và giao thông vận tải.
Dầu và than đá có chứa một lượng lưu huỳnh (0,5-0,6%) dưới dạng các hợp chất vô cơ và hữu cơ, khi các nhiên liệu này đốt sẽ chuyển thành SO2 và một phần SO3.
Khí SO2 là chất khí tương đối nặng nên thường nằm ở gần mặt đất. SO2 có khả
năng hòa tan trong nước cao hơn các chất khí khác nên dễ phản ứng với cơ quan hô hấp của con người và động vật. Khi hít thở nó sẽ được hấp thu hoàn toàn rất nhanh ở đoạn trên của đường hô hấp:
Ở nồng độ 1 – 5 ppm làm co thắc tạm thời các cơ mềm của khí quản;
Ở nồng độ 10 ppm đường hô hấp bị co thắc nghiêm trọng.
Đối với cây trồng gây ra các đốm nâu vàng trên lá không thể phục hồi được ở nồng độ 0.003 ppm trong không khí gây tác hại cấp tính.
Khí SO2 tác dụng với hơi nước trong môi trường không khí ẩm ướt thành H2SO4, H2SO3 khi chúng rơi xuống mặt đất cùng với mưa gây hiện tượng mưa axit.
c. Khí NOx
Sự hiện diện của NO và NO2 có thể gây ra hiện tượng khói quang học. Khí NO2 có thể
hấp thụ phần lớn các bức xạ nhìn thấy làm giảm khả năng nhìn trong cả lúc trời ít mây và ít các hạt lơ lửng, NO2 gây nguy hiểm cho sức khỏe ảnh hưởng đến hệ hô hấp. Ở nồng độ 0,06ppm, nếu tiếp xúc lâu dài sẽ gây ra bệnh phổi.
Là một chất khí màu nâu nhạt, mùi của nó có thể được bắt đầu phát hiện ở nồng độ 0,12ppm. Khi tiếp xúc với niêm mạc, tạo thành axit qua đường hô hấp hoặc hòa tan vào nước bọt vào đường tiêu hóa, sau đó vào máu. Ở nồng độ 15-50ppm gây nguy hiểm cho tim, phổi và gan. Trong không khí NO2 kết hợp với hơi nước tạo thành axit HNO3 theo mưa rơi xuống đất tạo thành mưa axit gây hại cho mùa màng, cây cối, nhà cửa,…
3.3.1.3 Tác động của tiếng ồn
Tiếng ồn là âm thanh không có giá trị, không phù hợp với mong muốn của người nghe có thể là một âm thanh hay nhưng nó không xuất hiện đúng lúc, đúng chỗ. Tiếng ồn cũng là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến môi trường và sức khỏe.
- Ảnh hưởng của tiếng ồn đến cơ quan thính giác: cơ quan thính giác của con người có một khả năng chịu đựng sự tác động của tiếng ồn và có khả năng phục hồi lại độ nhạy cảm rất nhanh. Sự thích nghi của tai người cũng có một giới hạn nhất định.
Bảng 3.9 Thời gian chịu đựng tiếng ồn tối đa của tai người Thời gian tác động
(h/ngày)
Mức độ ồn (dB)
1 105
2 100
4 95
6 92
8 90
(Nguồn: Hiến và Địch, 2005)
Khi tiếng ồn được lập lại nhiều lần, thính giác không có khả năng phục hồi hoàn toàn về trạng thái bình thường. Sau một thời gian dài sẽ sinh ra các bệnh lý như bệnh nặng tai và điếc.
- Ảnh hưởng của tiếng ồn đến các cơ quan khác:
Gây ra những thay đổi trong hệ thống tim mạch;
Làm giảm sự tiết dịch và sự co bóp bình thường của dạ dày bị ảnh hưởng gây bệnh viêm dạ dày;
Ngoài ra tiếng ồn còn gây tăng huyết áp, làm giảm sự tập trung, mệt mỏi và giảm năng suất lao động
3.3.2 Tác động của chất thải rắn
Các chất thải rắn của khu nuôi trồng thủy sản chủ yếu chứa các thành phần hữu cơ, không độc hại. Nhưng nếu không quản lý tốt thì trong quá trình chờ vận chuyển sẽ gây ô nhiễm môi trường không khí ảnh hưởng đến an toàn vệ sinh thực phẩm và sức khỏe của du khách và các công nhân, nhân viên phục vụ trong khu vực dự án. Đặc biệt một lượng lớn bùn thải của ao nuôi cá nếu không được xử lý tốt sẽ gây tác động lớn đến môi trường đất và nước của khu vực dự án.
3.3.3 Tác động của các chất gây ô nhiễm nước
Qua bảng 3.5 và 3.7 cho thấy nước thải từ các ao nuôi cá và nước thải từ các hoạt động của công nhân chứa các chất ô nhiễm chủ yếu là chất hữu cơ, chất rắn, dinh dưỡng
và vi sinh. Nguồn nước thải này nếu không được xử lý mà thải trực tiếp vào nguồn tiếp nhận sẽ gây ra tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng do có chứa các tác nhân gây ô nhiễm sau:
a. Chất hữu cơ
Hàm lượng chất hữu cơ trong nước là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng nước trong thủy vực. Ở mức nồng độ vừa phải trong nước thì chất hữu cơ là nguồn cung cấp dinh dưỡng phong phú cho các thủy sinh vật trong thủy vực, nhưng khi ở nồng độ cao làm cho môi trường nước bị nhiễm bẩn hay bị ô nhiễm nặng. Để đánh giá hàm lượng chất hữu cơ thì người ta dùng các thông số như: BOD5, COD.
Dựa vào hàm lượng COD trong nước có thể đánh giá cơ bản mức độ ô nhiễm nước trong thủy vực như sau:
- Nếu COD > 8mg/l thì ô nhiễm nhẹ;
- Nếu COD: 8-20mg/l thì ô nhiễm vừa;
- Nếu COD 20-30 mg/l thì ô nhiễm;
- Nếu COD >30 thì ô nhiễm nặng.
Tác động của các chất hữu cơ có trong nước thải: các chất hữu cơ hiện diện trong nước thải chủ yếu là các chất hữu cơ dễ bị phân hủy bởi vi sinh vật. Sự hiện diện của chất hữu cơ sẽ tạo điều kiện cho các vi sinh vật phát triển mạnh gây ra các tác động xấu đến môi trường nước mặt tại khu vực và vùng lân cận do:
Làm thiếu trầm trọng Oxy hòa tan (DO) trong môi trường nước do vi sinh vật sử dụng để phân hủy các chất hữu cơ, gây ảnh hưởng xấu đến các loài động vật thủy sinh;
Tạo ra các khí độc do quá trình phân hủy sinh học của vi sinh vật như H2S, NH3,… và các mầm móng gây bệnh từ các vi khuẩn lan truyền trong môi trường nước.
b. Tổng Nitơ
Hàm lượng Nitơ trong môi trường nước là một nhân tố cần thiết cho các vi sinh vật do N là một thành phần cấu tạo protein và axit nucleic của vi sinh vật. Do đó, số liệu về N trong môi trường nước là rất cần thiết để đánh giá mức độ có thể xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học. Nitơ trong nước có thể tồn tại ở các dạng sau: NH3 (ammoniac), muối amon (NH4NO3, (NH4S)2O4,….), NO2-, NO3- và N2.
Quá trình chuyển hóa nitơ trong môi trường nước do sự phân hủy của các chất hữu cơ có thể biểu diễn qua chuỗi sau:
Oxy hóa bởi vk nitromonas
NO2- NH3
Chất hữu cơ
(Protein) NO3- N2
Khử
NO3 -
Oxy hóa bởi vk nitrobate
Việc xác định nồng độ nitơ trong môi trường nước chỉ thị cho thời gian bị ô nhiễm hay khoảng cách từ nguồn thải. Sự hiện diện nhiều NH3 trong môi trường nước có thể
gây độc cho cá và các thủy sinh vật.
c. Tổng Photpho
Cũng như Nitơ, Photpho là chất dinh dưỡng cho vi khuẩn sống và phát triển trong các công trình xử lý nước thải. Photpho là chất dinh dưỡng đầu tiên cần thiết cho sự phát triển của thực vật sống dưới nước. Nếu nồng độ Photpho và Nitơ trong nước thải xả ra sông quá mức cho phép sẽ gây ra hiện tượng tảo nở hoa.
Hiện tượng “tảo nở hoa” là quá trình sinh trưởng và phát triển mạnh, hàng loạt của tảo khắp thủy vực tạo thành một màn kín che phủ bề mặt nước làm ánh sáng và oxy không khuếch tán vào môi trường nước làm cho các thủy sinh vật ở vùng giữa và vùng đáy thủy vực thiếu oxy, ánh sáng và chất độc tiết ra từ tảo có thể dẫn đến hiện tượng chết hàng loạt của các thủy sinh vật.
d. Dầu mỡ động thực vật
Khi hàm lượng dầu mỡ trong nước cao, nước sẽ có mùi hôi và không thể dùng cho mục đích ăn uống được. Ngoài ra, ô nhiễm dầu sẽ dẫn đến giảm khả năng tự làm sạch của nguồn nước do tạo thành các thể không hòa tan tồn tại trong nước giảm khả năng hô hấp của các thủy sinh vật, giết chết các vi sinh vật, phiêu sinh và sinh vật đáy,…
e. Chất rắn lơ lửng
Chất rắn lơ lửng khi tồn tại ở hàm lượng cao trong môi trường nước cũng sẽ gây ra các tác động tiêu cực đến đời sống thủy sinh vật. Ngoài ra, nó còn làm tăng độ đục của nước, gây bồi lắng lòng sông,…