Hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại

Một phần của tài liệu Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần hàng hải việt nam – chi nhánh nam hà nội (Trang 38 - 46)

CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN

2.3. Hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại

2.3.1. Khái niệm về hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại Trong nền kinh tế thị trường với mức độ cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, bất kỳ sự biến động nào dù lớn hay nhỏ đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Vì thế, nghiên cứu hiệu quả huy động vốn không chỉ để đánh giá hoạt động huy động vốn và hơn thế nó còn phản ánh khả năng thích nghi và khẳng định sự phát triển của mỗi ngân hàng.

Hiệu quả huy động vốn là phạm trù phản ánh trình độ, khả năng đảm bảo thực hiện công tác huy động vốn có kết quả và hiệu quả cao với chi phí thấp nhất. Có nghĩa là, đối với mặt lượng hiệu quả huy động vốn biểu hiện giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Còn đối với mặt chất nó phản ánh năng lực và trình độ quản lý của ngân hàng. Tính hiệu quả của một hoạt động thể hiện ở việc nó mang lại một lợi ích nhất định cho chủ thể thực hiện hoạt động đó cũng như các đối tượng khác có liên quan.

Trên giác độ ngân hàng, để đạt được hiệu quả huy động vốn cao ngân hàng cần bám sát nhu cầu sử dụng vốn. Huy động vốn không những đáp ứng nhu cầu mà còn phù hợp về cơ cấu, kỳ hạn và loại tiền gửi với chi phí huy động. Có như vậy mới hạn chế được rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng.

Trên giác độ khách hàng, hiệu quả huy động vốn của ngân hàng đạt được khi thỏa mãn tốt nhu cầu của khách hàng về tính đa dạng sản phẩm huy động vốn, về lãi suất, về chất lượng dịch vụ,… Nói cách khác, hiệu quả huy động vốn của ngân hàng cao khi tạo cho khách hàng sự hài lòng, tin tưởng khi gửi tiền vào ngân hàng hay khi sử dụng những sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng cung cấp.

2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại

Điểm khác nhau cơ bản trong nguồn vốn của NHTM với các doanh nghiệp phi tài chính là: NHTM kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn huy động từ nền kinh tế, còn các doanh nghiệp khác hoạt động dựa trên vốn tự có là chính. Vì vậy, đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn là công tác không thể thiếu trong nghiên cứu nguồn vốn của các ngân hàng. Để đánh giá hiệu quả huy động vốn ở Ngân hàng thương mại, có rất nhiều tiêu chí được đưa ra. Tuy nhiên, trong giới hạn nghiên cứu của bài luận văn này, tác giả xin đưa ra 5 chỉ tiêu sau:

2.3.2.1. Tốc độ tăng trưởng của quy mô nguồn vốn huy động

Tính thanh khoản là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động và uy tín của ngân hàng. Một ngân hàng có khả năng thanh khoản tốt khi ngân hàng đó có một lượng vốn khả dụng có quy mô hợp lý. Nguồn vốn mà ngân hàng huy động từ khách hàng là nguồn cung thanh khoản quan trọng bên cạnh việc vay nợ, bán tài sản hay doanh thu từ các hoạt động phi tiền gửi.

Quy mô vốn hợp lý là quy mô vốn đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư của ngân hàng. Nếu thừa hoặc thiếu nhiều cũng gây ra tình trạng lãng phí. Tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn phải luôn dương. Tỷ trọng các loại vốn theo thời gian phải phù hợp với nhu cầu sử dụng. do vậy, xác định được cơ cấu vốn hợp lý, xây dựng chiến lược nhằm tăng trưởng ổn định là vấn đề quan trọng trong

việc nâng cao hiệu quả huy động vốn, nâng cao khả năng thanh khoản của ngân hàng.

Nguồn vốn huy động của NHTM phải đạt mức tăng trưởng cao hàng năm, tốc độ tăng trưởng được duy trì và đạt được theo mục tiêu đã định.

(Tổng NV kỳ này-Tổng NV kỳ trước)*100 Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn =

Tổng NV kỳ trước

Nhóm chỉ tiêu này cho thấy tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn huy động có ổn định hay không. Nguồn vốn tăng trưởng ổn định trong thời gian dài sẽ tạo điều kiện cho việc cân đối vốn để phục vụ cho vay và đầu tư, nhằm đạt mục tiêu sinh lời.

2.3.2.2. Cơ cấu nguồn vốn huy động

Mỗi loại tiền gửi có các yêu cầu khác nhau về chi phí, thanh khoản, thời hạn...Do đó, việc xác định rõ cơ cấu vốn huy động sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế rủi ro có thể gặp phải và tối thiểu hoá chi phí đầu vào.

Chúng ta sẽ so sánh những khoản vốn có tính thời hạn dài so với các khoản vốn có tính thời hạn thấp để xem xét sự ổn định của nguồn vốn huy động, từ đó tìm ra nguyên nhân và biện pháp để tăng các khoản huy động có

thời hạn dài. Chi phí huy động là vấn đề mà các ngân hàng đều quan tâm. Để có được chi phí đầu vào hợp lý, có lợi cho ngân hàng thì các ngân hàng phải xem xét khoản mục nào có tỷ trọng lớn nhất. Trong thực tế các khoản huy động từ các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có tính ổn định tương đối cao, chi phí vừa phải rất có lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Cho nên để đẩy mạnh hiệu quả công tác huy động vốn thì các ngân hàng phải tìm cách nâng cao tỷ trọng của nhóm này lên hơn nữa trong cơ cấu vốn huy động của mình. Bên cạnh đó các khoản vốn huy động từ khu vực dân cư rất tiềm tàng giúp Ngân hàng mở rộng kinh doanh tín dụng tiêu dùng, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, tiết kiệm chi phí lưu thông có lợi cho nền kinh tế.

 Chỉ tiêu đánh giá cơ cấu các khoản huy động:

Số dư từng khoản huy động Cơ cấu các khoản huy động =

Tổng vốn huy động

Nhóm chỉ tiêu này đánh giá tổng quan về tỷ trọng giữa các nguồn vốn huy động ngân hàng. Cho biết hiện trong tổng vốn huy động, từng loại vốn chiếm tỷ lệ bao nhiêu, có hợp lý hay không. Sự hợp lý thể hiện tính cân đối giữa nhu cầu sử dụng vốn về cả kỳ hạn và loại tiền.

Cơ cấu vốn theo kỳ hạn: Chỉ tiêu cơ cấu huy động theo kỳ hạn phản ánh tỷ trọng vốn huy động theo kỳ hạn trong tổng vốn huy động là bao nhiêu phần trăm. Ngân hàng có thể huy động và cho vay theo các kỳ hạn khác nhau.

Mỗi kỳ hạn có ưu và nhược điểm riêng. Chính vì vậy, các ngân hàng phải tính toán như thế nào để huy động và sử dụng vốn với kỳ hạn hợp lý nhằm mục đích sinh lời và an toàn.

Đối với các khoản vốn huy động ngắn hạn, ngân hàng chỉ có được nguồn vốn ổn định trong ngắn hạn, nhưng chi phí cho khoản huy động này thấp. Do đó, để đảm bảo an toàn ngân hàng thường dùng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay ngắn hạn và sử dụng một tỷ lệ nhất định nguồn vốn này vào cho vay trung và dài hạn. Như vậy, ngân hàng sẽ giảm được rủi ro về lãi suất và thanh khoản.

Hơn nữa, để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động kinh doanh ngân hàng cần tính toán sự phù hợp trong kỳ hạn huy động và sử dụng vốn nhằm đảm bảo tính ổn định của nguồn vốn và chi phí trả lãi nguồn vốn. Khi xét tính ổn định của nguồn vốn về kỳ hạn cần chú ý đến kỳ hạn thực tế nguồn vốn hay là xem xét vấn đề rút vốn trước hạn. Nếu ngân hàng chủ yếu huy động vốn không kỳ hạn và ngắn hạn trong khi lại sử dụng vốn với kỳ hạn dài hơn sẽ dẫn đến sự không cân xứng về kỳ hạn giữa nguồn vốn và việc sử dụng vốn. Sự cân xứng này mà quá lớn ngân hàng sẽ dễ rơi vào tình trạng mất thanh khoản

do các khoản nợ chưa đến hạn thu hồi.

Cơ cấu vốn theo loại tiền: Ngày nay, khi các mối quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng không chỉ ở phạm vi kinh tế mà trên tất các các lĩnh vực như du lịch, văn hóa, giao dục,….thì nhu cầu sử dụng ngoại tệ ngày càng tăng và không chỉ tập trung ở các loại ngoại tệ mạnh như USD, EUR,GBP mà còn chuyển sang các đồng tiền ngoại khác như HKD, AUD, JPY,…Việc huy động vốn các loại ngoại tệ trên dưới dạng thu mua ngoại tệ hay tiền gửi tiết kiệm một mặt thu hút vốn ngoại tệ cho ngân hàng, mặt khác nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách hàng.

Một ngân hàng duy trì một tài sản đa tiền tệ sẽ có lợi thế về khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng hơn các đối thủ cạnh tranh. Từ đó có điều kiện gia tăng doanh thu, lợi nhuận. Tuy nhiên, không phải ngân hàng nào cũng có thể triển khai được hình thức huy động vốn ngoại tệ đa dạng mà chỉ có những ngân hàng có thế mạnh về quan hệ đối ngoại mới thực hiện được vì họ sẽ phải đối mặt với một số rủi ro như lãi suất, tỷ giá.

Cơ cấu vốn theo đối tượng khách hàng: Căn cứ vào mục tiêu và đặc trưng hoạt động mỗi ngân hàng sẽ hướng vào những đối tượng khách hàng khác nhau. Những đối tượng khác nhau sẽ đem lại cho ngân hàng những thuận lợi và khó khăn riêng.

Khách hàng lớn: là các tổ chức kinh tế. Số lượng khách hàng này ít, khối lượng giao dịch không nhiều nhưng giá trị một giao dịch lại lớn. Ngân hàng có thể huy động vốn lớn cũng như cung cấp được nhiều dịch vụ với nhu nhập cao từ đối tượng khách hàng này.

Khách hàng vừa và nhỏ: Gồm các khách hàng cá nhân, hộ gia đình, những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Số lượng khách hàng thuộc đối tượng này thường lớn, giá trị mỗi giao dịch nhỏ nhưng khối lượng giao dịch nhiều. Vì vậy, ngân hàng cần phải thiết lập mạng lưới hoạt động với nhiều chi nhánh,

phòng giao dịch, áp dụng nhiều kênh phân phối hiện đại để thu hút nhóm khách hàng này sao cho hiệu quả nhất.

Tùy vào loại hình ngân hàng mà khách hàng của ngân hàng có thể chủ yếu là doanh nghiệp hay cá nhân, nguồn vốn huy động mỗi ngân hàng là khác nhau. Vì vậy, để đảm bảo tính ổn định của nguồn vốn huy động ngân hàng thường cố gắng đa dạng hóa đối tượng khách hàng nhằm phân tán rủi ro bởi khách hàng gửi tiền cũng thường là khách hàng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ khác của ngân hàng như vay vốn, bảo lãnh,ủy thác đầu tư,….

Tóm lại cơ cấu vốn của các ngân hàng có thẻ rất khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm khách hàng mà ngân hàng phục vụ, chiến lược kinh doanh của ngân hàng,… Cơ cấu nguồn vốn của một ngân hàng được coi là hợp lý nếu các thành phần của nó thỏa mãn được các quy định quản lý của pháp luật, đáp ứng được kế hoạch về sử dụng vốn đồng thời với chi phí và sự biến động thấp.

2.3.2.3. Chi phí vốn huy động

Chi phí huy động vốn: Định giá nguồn huy động là một mắt xích rất quan trọng trong quy trình định giá của ngân hàng, bao gồm xác định lãi suất huy động và các chi phí khác có liên quan tới huy động, trong đó lãi suất là phần quan trọng ảnh hưởng tới quy mô và hiệu quả huy động.

Chi phí huy động vốn = Lãi trả cho nguồn huy động + chi phí huy động khác.

Lãi trả cho nguồn huy động = Quy mô huy động*Lãi suất huy động.

Chi phí huy động khác là rất đa dạng và không ngừng gia tăng trong điều kiện các ngân hàng gia tăng cạnh tranh phi lãi suất. Nó bao gồm chi phí trả trực tiếp cho người gửi tiền (quà tặng, quay số trúng thưởng, kèm bảo hiểm,…), chi phí tăng tính tiện ích cho người gửi tiền (mở thêm chi nhánh, quầy, phòng, điểm giao dịch, trang bị thêm máy đếm tiền, soi tiền, bó tiền, huy động tại nhà, tại cơ quan,…), chi phí lương của cán bộ phòng nguồn vốn,

chi phí bảo hiểm tiền gửi,…Một số chi phí khác được tính chung vào chi phí quản lý và rất khó phân bổ cho hoạt động huy động vốn.

Để đo lường chi phí huy động vốn nhằm đánh giá hiệu quả huy động vốn cần phải đánh giá tổng hợp nhiều chỉ tiêu. Quản lý chi phí cho các nguồn huy động là hoạt động quan trọng của mỗi ngân hàng. Vì mỗi sự thay đổi về lãi suất, cơ cấu nguồn vốn đều tác động trực tiếp đến chi phí đầu vào của mỗi ngân hàng. Vì vậy, bài viết chỉ đề cập đến chi phí huy động vốn ở góc độ chi phí trả lãi nguồn huy động vốn. Chi phí huy động vốn gồm chi phí trả lãi và chi phí phục vụ cho hoạt động thu hút nguồn vốn.

Chi phí trả lãi của ngân hàng phụ thuộc vào các yếu tố như quy mô nguồn vốn, lãi suất huy động, cơ cấu kỳ hạn, cơ cấu đồng tiền huy động. Một yếu tố hết sức quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp tới chi phí trả lãi của ngân hàng, đó là lãi suất huy động. Lãi suất huy động được điều chỉnh thường xuyên, biến động của thị trường và theo chiến lược của từng ngân hàng nhưng phải tuân thủ theo quy định về lãi suất của ngân hàng nhà nước.

Lãi trả cho nguồn huy động là chi phí hay lãi suất mà NHTM phải trả cho khách hàng khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng công bố cho khách hàng. Đây là khoản chi phí quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng chi phí hoạt động của NHTM. Chi phí này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như kỳ hạn, loại tiền gửi, mục tiêu gửi tiền của khách hàng, chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ, tiện ích kèm theo,…Tuy nhiên, lãi suất thực tế từng nguồn vốn huy động đối với ngân hàng là cao hơn bởi ngoài chi phí trả lãi ngân hàng còn phải bỏ ra nhiều loại chi phí khác nữa đó là chi phí phi lãi.

Để đánh giá hiệu quả huy động vốn, người ta sử dụng các chỉ tiêu sau:

- Chi phí trả lãi/Tổng nguồn vốn huy động: chỉ tiêu này cho thấy để huy động được một đồng vồn thì ngân hàng phải trả bao nhiêu tiền dựa trên

lãi suất công bố cho khách hàng.

- Chi phí phi trả lãi/Tổng nguồn vốn huy động: chỉ tiêu này cho thấy để huy động được 1 đồng vốn ngân hàng bỏ ra bao nhiêu chi phí cho việc quản lý, cất trữ, trả lương nhân viên,…

Tóm lại, chi phí huy động/Tổng nguồn vốn huy động được dùng để đánh giá xem một đồng vốn ngân hàng huy động được cần phải bỏ ra bao nhiêu chi phí. Việc đưa ra một biểu lãi suất huy động hợp lý là rất quan trọng, lãi suất không quá cao đảm bảo lợi ích ngân hàng, cũng không quá thấp nhằm thu hút khách hàng gửi tiền. Đồng thời giảm bớt các chi phí phi lãi cũng sẽ làm cho hiệu quả hoạt động huy động vốn của ngân hàng hiệu quả hơn.

2.3.2.4. Chênh lệch lãi suất bình quân

Các ngân hàng thương mại thường dùng chỉ tiêu lãi suất bình quân để biết chi phí mà ngân hàng bỏ ra để có được một đồng vốn huy động là bao nhiêu tại một thời điểm hoặc trong thời kỳ. Lãi suất bình quân cho ta thấy xu hướng thay đổi lãi suất của nguồn, mức độ thay đổi lãi suất mỗi nguồn, sự kết hợp giữa lãi suất cá biệt và tỷ trọng mỗi nguồn. Nó cũng cho thấy những nguồn đắt tương đối ( lãi suất cá biệt > lãi suất bình quân) và các nguồn rẻ tương đối (lãi suất cá biệt < lãi suất bình quân). Điều này rất có ý

nghĩa đối với hoạch định chiến lược nguồn vốn.

Chênh lệch lãi suất bình quân là chỉ tiêu phản ánh mức chênh lệch giữa lãi suất đầu ra bình quân ( lãi thu được từ hoạt động cho vay và đầu tư) và lãi suất đầu vào bình quân (lãi phải trả cho các khoản huy động).

Chênh lệch lãi suất bình quân = Thu từ lãi cho vay và đầu tư/Tổng tài sản sinh lời bình quân – Tổng chi lãi/Vốn phải trả lãi bình quân.

Chênh lệch lãi suất bình quân giữa đầu vào và đầu ra cho biết phần lãi suất mà ngân hàng được hưởng, đo lường hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Một phần của tài liệu Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần hàng hải việt nam – chi nhánh nam hà nội (Trang 38 - 46)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(107 trang)