CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mạithương mại
2.4.1. Các nhân tố khách quan
2.4.1.1. Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế
Sự ổn định của nền kinh tế
Động thái của nền kinh tế chính là cơ sở đầu tiền để người gửi tiền ra quyết định nên gửi tiền vào ngân hàng, tích trữ vàng, Đôla Mỹ hay mua sắm các tài sản khác. Trong điều kiện nền kinh tế bất ổn định, giá cả và sức mua của đồng tiền biến động mạnh thì người dân có xu hướng tích trữ vàng, USD hoặc các dạng tài sản khác thay vì đem số tiền đó gửi tại ngân hàng. Ngược
lại, một nền kinh tế phát triển ổn định với tỷ lệ lạm phát hợp lý thì người dân sẽ có cái nhìn khả quan hơn và xu hướng gửi tiền ở các ngân hàng thương mại tăng lên là một điều tất yếu. Bên cạnh đó nhu cầu về tín dụng của các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế cũng tăng lên. Vì khi đó, các nhà đầu tư có cái nhìn khách quan về nền kinh tế, họ kỳ vọng vào khả năng sinh lời trong tương lai khi họ bỏ vốn ra để đầu tư một loại tài sản hay dịch vụ nào đó.
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu,Việt Nam cũng không tránh khỏi chịu sự đình trệ của nền kinh tế, đặc biệt sự đóng băng của thị trường bất động sản, tình trạng vỡ nợ gia tăng rộng khắp trên cả nước, tình trạng nợ quá hạn ở các NHTM gia tăng, vỡ nợ tính dụng đen. Các ngân hàng tăng cường công tác huy động vốn và quản lý dòng vốn của mình trước những thách thức lớn của nền kinh tế.
Mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất:
Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới việc điều chỉnh chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương và quyết định đưa ra lãi suất huy động của các nhà quản lý ngân hàng thương mại là yếu tố lạm phát.
Trong điều kiện nền kinh tế có chỉ số lạm phát tăng cao, nhằm kiềm chế lạm phát thì Ngân hàng trung ương sẽ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt tức là giảm lượng tiền đưa vào trong lưu thong. Thêm vào đó, khi lạm phát cao giá cả hàng hóa dịch vụ tăng nhanh chóng khiến cho người dân có xu hướng tích trữ hàng hóa, vật có giá hơn là gửi tiền vào ngân hàng, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả huy động vốn của các NHTM.
Bên cạnh đó trong nền kinh tế thị trường nguyên tắc lãi suất thực dương. Nghĩa là lãi suất huy động danh nghĩa của các NHTM phải cao hơn chỉ số lạm phát - là một nguyên tắc quan trọng cả về mặt lý thuyết và thực tiến. Bởi vì mức lãi suất có cao hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng thì mới thu hút được tiền trong lưu thong, mới thu hút được người gửi tiền vào NHTM do
đảm bảo được lợi ích của người gửi tiền. Do vậy, để đảm bảo hiệu quả huy động vốn trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát cao các NHTM sẽ tăng lãi suất nhằm thu hút tiền từ trong lưu thong. Tuy nhiên, việc tăng lãi suất huy động vốn ồ ạt rất dễ dẫn đến một cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng. Khi lãi suất đầu vào tăng cao thì để đảm bảo hiệu quả trong kinh doanh, lãi suất đầu ra phải tăng theo gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn vay của ngân hàng để mở rộng sản xuất, kinh doanh. Để hạn chế cuộc đua lãi suất và giảm gánh nặng cho doanh nghiệp, Ngân hàng trung ương khống chế mức lãi suất trần huy động khiến cho hoạt động huy động vốn của các NHTM càng gặp khó khăn hơn nữa.
Vì vậy, trong điều kiện nền kinh tế lạm phát cao, Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, các NHTM cần tính toán tới các yếu tố bao gồm lãi suất thực dương, lãi suất trần huy động
2.4.1.2. Chính sách, pháp luật của Nhà nước
Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng chịu sự điều tiết chặt chẽ của các chính sách của Nhà nước, các quy định của pháp luật và chịu sự điều tiết, quản lý trực tiếp từ phía ngân hàng Nhà nước.
trong đó, những bộ luật tác động trực tiếp như: Luật các tổ chức tín dụng, luật ngân hàng Nhà nước,…., những bộ luật tác động gián tiếp như Luật đầu tư, luật doanh nghiệp, Pháp lệnh ngoại hối, chính sách tỷ giá, thuế,....Những sách này đều có tác động hai chiều đến quá trình huy động vốn của ngân hàng thương mại, hoặc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn hoặc sẽ gây ra trở ngại cho hoạt động này. Hiện nay, Nhà nước đã thấy được sự cần thiết của việc huy động vốn và đã ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể nhằm khuyến khích các NHTM ngày cảng mở rộng huy động vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước.
2.4.1.3. Cơ cấu dân cư và vị trí địa lý
Ở những địa điểm có dân cư đông đúc, các thành phố lớn có nhiều doanh nghiệp hoạt động và kinh tế phát triển thì các NHTM có thể huy động được nhanh hơn và nhiều hơn so với những nơi kém phát triển hơn. Đặc biệt ở những thị trường sôi động, có độ nhạy cảm cao với lãi suất và tiện ích do nghiệp vụ huy động vốn mang lại thì ở đó việc mở rộng và bổ sung nguồn vốn của NHTM thuận lợi hơn các vùng nông thôn, miền núi.
Dân cư có thu nhập càng cao thì khối lượng tiền dành cho tiết kiệm có
thể cũng tăng nhiều. Bởi vì, với mức thu nhập lớn thì khả năng thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu sẽ cao hơn và do đó sẽ có nhiều khoản tiết kiệm hơn.
Tâm lý tiêu dùng của người dân cũng rất khác nhau giữa các vùng, miền, quốc gia. Có thể với cùng một mức thu nhập, cùng một giá sinh hoat như nhau những ở nơi này lượng tiền bỏ vào tiết kiệm rât lớn nhưng ở nơi khác lại rất nhỏ.
Tập quán dân cư là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Tâm lý, thói quen của người dân giữa các vùng địa lý khác nhau thường khác nhau. Đó là thói quen chi tiêu, thói quen thanh toán, mức độ tiếp cận, hiểu biết về các dịch vụ ngân hàng…Những nhân tố này cùng với yếu tố thu nhập sẽ tác động đến hành vi gửi tiền của dân cư.
Lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư có được chủ yếu do việc tiết kiệm trong tiêu dùng của họ. Ở đâu mà dân có thói quen tiết kiệm chi tiêu hiện tại để dành cho tương lai thì ở đó sẽ thuận lợi hơn cho ngân hàng trong việc huy động vốn và ngược lại.
Ngoài ra, huy động vốn của ngân hàng còn chịu ảnh hưởng bởi thói quen thanh toán của dân cư. Ở những nước phát triển, nhu cầu giao dịch, thanh toán qua ngân hàng rất lớn. Tuy nhiên, ở những nước lém phát triển, thu nhập của người dân thấp, người dân thường có thói quen chi tiêu, thanh
toán bằng tiền mặt. Do vậy, việc phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt gặp nhiều khó khăn.
2.4.1.4. Sự cạnh tranh của các tổ chức huy động vốn và hình thức đầu tư, huy động vốn khác
Sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO, nền kinh tế trong nước đã có
những sự biến đổi rõ rệt, đặc biệt là ngành ngân hàng. Số lượng ngân hàng hoạt động ngày càng nhiều do sự tham gia của nhiều loại hình ngân hàng mới và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Do vậy, cạnh tranh có xu hướng gia tăng nhanh chóng và làm giảm đi tính khác biệt giữa các ngân hàng thương mại và với các trung gian tài chính phi ngân hàng. Khách hàng có tiền nhàn rỗi, họ có thể đến gửi vào ngân hàng hay đầu tư trực tiếp vào việc mua chứng khoán của Chính phủ và công ty. Xu hướng cạnh tranh trong ngân hàng gia tăng do bốn tác nhân chủ yếu là thay đổi chính sách về tài chính – tiền tệ - ngân hàng, đổi mới tài chính, chứng khoán hóa và toàn cầu hóa.
Trong môi trường ngành ngân hàng hiện nay, cạnh tranh về tiền gửi diễn ra dưới nhiều hình thức. Các tổ chức tài chính ít bị giới hạn về các điều khoản liên quan đến tiền gửi, do đó khách hàng có thể thỏa thuận về quy mô tiền gửi, lãi suất và thời hạn. Các ngân hàng không thể áp dụng những điều kiện giống nhau cho tất cả các khách hàng gửi tiền. Vì lý do này, các sản phẩm dịch vụ liên quan đến tiền gửi được mở rộng nhanh chóng. Thêm vào đó, nhiều tổ chức phi ngân hàng có thể huy động tiền gửi có kỳ hạn, thậm chí còn cung cấp cả các tài khoản không kỳ hạn. Do cạnh tranh, lãi suất tiền gửi tăng lên trong khi chi phí các dịch vụ liên quan đến tiền gửi giảm đi.
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ ngân hàng và các dịch vụ thanh toán như hệ thống thanh toán điện tử, máy rút tiền tự động ATM, thẻ tín dụng,…ngày càng nhanh chóng, an toàn, thuận lợi cho người gửi tiền, làm cho các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng
phổ biến. Hệ thống thanh toán điện tử cho phép việc thanh toán bù trừ, chuyển tiền,…giữa các ngân hàng, các chi nhánh ngân hàng ở những địa điểm khác nhau diễn ra nhanh chóng, chính xác, mang lại sự tiện lợi cho hoạt động của chính ngân hàng và nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Sự kết hợp giữa ngân hàng và các nhà mạng cho phép ra đời dịch vụ MobileBanking cho phép khách hàng thanh toán hóa đơn, tiền điện thoại, chuyển khoản trên điện thoại, tra cứu thông tin, tỷ giá, lãi suất,….đây là sản phẩm có tiện ích vượt trội, rút ngắn khoảng cách giữa ngân hàng và khách hàng, thu hut được nhiều đối tượng khách hàng tham gia. Những phân tích trên cho thấy, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ ngân hàng chính là nhân tố ảnh hưởng tích cực làm tăng khả năng huy động vốn của các ngân hàng nói chung.
2.4.2. Các nhân tố chủ quan 2.4.2.1. Uy tín của ngân hàng
Dân cư gửi tiền nhàn rỗi của mình vào ngân hàng với mực đích an toàn và sinh lời. Bởi vậy, uy tín của ngân hàng chính là một trong những yếu tố tiên quyết của người gửi tiền. Trước khi quyết định gửi tiền vào ngân hàng nào họ thường tham khảo, cân nhắc và lựa chọn ngân hàng nào đáng tin cậy, an toàn và thuận lợi nhất. Ngân hàng đó luôn đảm bảo khả năng thanh toán khi họ có nhu cầu rút tiền, và đó chính là biểu hiện sự uy tín của ngân hàng đối với khách hàng.
Thông thường người gửi tiền đánh giá uy tín ngân hàng qua các tiêu thức cơ bản sau: lịch sử phát triển, quy mô nguồn vốn, tình hình hoạt động kinh doanh, chất lượng dịch vụ,…Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường và toàn cầu hóa như hiện nay, vấn đề cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt hơn thì uy tín chính là sức mạnh cạnh tranh để ngân hàng thu hút khách hàng về phía mình. Những ngân hàng có uy tín có thể đưa ra mức
lãi suất huy động thấp hơn các ngân hàng khác nhưng lượng người gửi tiền vẫn nhiều hơn các đối thủ khác. Bởi vậy, các ngân hàng không ngừng nâng cao uy tín của mình trên thị trường tài chính.
2.4.2.2. Chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng
Chính sách huy động vốn tác động trực tiếp đến quy mô và cơ cấu vốn huy động của ngân hàng thương mại, do đó quyết định tới hiệu quả huy động vốn của ngân hàng.
Lãi suất là công cụ quan trọng trong chiến lược huy động vốn của một ngân hàng thương mại. Đối với ngân hàng, lãi suất là chi phí huy động và tác động trực tiếp đến doanh thu, lợi nhuận của ngân hàng. Đối với khách hàng, lãi suất lại là khoản lợi tức thu được, là yếu tố giúp khách hàng lựa chọn nên gửi tiền vào ngân hàng nào, đầu tư vào đâu. Nếu ngân hàng đưa ra mức lãi suất cao sẽ hấp dẫn người gửi tiền và thu hút được một lượng lớn khách hàng gửi tiền vào. Ngược lại, nếu ngân hàng đưa ra mức lãi suất kém cạnh tranh thì người gửi tiên có thể lựa chọn các kênh đầu tư khác có lợi hơn và làm giảm nguồn huy động của ngân hàng.
Tuy nhiên, lãi suất gắn với vấn đề lợi nhuận và hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một mức lãi suất cao, hấp dẫn công chúng sẽ làm tăng lượng huy động vốn của ngân hàng. Vấn đề đặt ra là ngân hàng phải đưa ra mức lãi suất huy động đủ cao để thu hút khách hàng nhưng không được cao hơn mức lãi suất cho vay và đảm bảo lợi nhuận của ngân hàng.
Một chính sách lãi suất huy động hợp lý phải đảm bảo được các yếu tố như: mức lãi suất có thể cho vay, mặt bằng lãi suất trên thị trường, các quy định của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất huy động và cho vay, tỷ lệ lạm phát, sự biến động của tỷ giá.,…Vì vậy, mỗi ngân hàng cần có kế hoạch quản lý chi phí huy động chặt chẽ, nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất huy động để có thể đưa ra mức lãi suất hợp lý, linh hoạt.
2.4.2.3. Chất lượng sản phẩm, dịch vụ
Có thể nói, lãi suất huy động là yếu tố đầu tiên đưa khách hàng đến với ngân hàng. Nhưng yếu tố góp phần giữ chân khách hàng là chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp
Ngày nay với sự phát triển của khoa học công nghệ thì ngành công nghệ ngân hàng cũng ngày càng phát triển theo, mang đến cho khách hàng nhiều tiện ích và giá trị gia tăng khi sử dụng những loại sản phẩm dịch vụ này. Đó là khách hàng sử dụng những hình thức thanh toán trực tiếp, thanh toán online bao gồm thanh toán chuyển khoản cùng hệ thống, liên ngân hàng, gửi tiết kiệm và tất toán tiết kiệm trực tuyến,….Khách hàng có thể thực hiện các giao dịch mình muốn bất cứ nơi đâu mà không cần thiết phải trực tiếp đến ngân hàng giao dịch. Bên cạnh đó ngân hàng cũng đưa ra nhiều chính sách huy động vốn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Vì mỗi phân khúc khách hàng có những mục đích sử dụng vốn khác nhau, ví dụ:
các cán bộ công chức muốn tích lũy để mua sắm, người già tích lũy an dưỡng tuổi già, còn người trẻ tuổi thường để đầu tư,…Điều này, đòi hỏi ngân hàng phải nhanh chóng nắm bắt tâm lý của từng nhóm khách hàng và đưa ra các loại sản phảm huy động hợp lý để khách hàng có nhiều sự lựa chọn khi đến gửi tiết kiệm.
Bên cạnh sản phẩm, dịch vụ là thái độ của nhân viên ngân hàng, đặc biệt là nhân viên giao dịch và nhân viên quan hệ khách hàng. Bởi những lực lượng này là những người thường xuyên, liên tục, đại diện cho ngân hàng tiếp xúc với khách hàng. Họ phải nắm được tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của khách hàng. Họ là những người mang đến những giá trị gia tăng cho khách hàng khi đến giao dịch tại ngân hàng. Họ mang đến cho khách hàng sự thoải mái khi giao dịch, tạo niềm tin, mối quan hệ thân thiết với khách hàng, góp phần làm tăng uy tín của ngân hàng.
2.4.2.4. Hoạt động Marketing ngân hàng
Đó là hoạt động quảng cáo, quảng bá thương hiệu, tiếp thị, chính sách khuyến mãi, chăm sóc khách hàng, bố trí không gian nơi giao dịch và trang trí điểm giao dịch.,…Trong xu hướng cạnh tranh ngày càng tăng và diễn ra ngày càng khốc liệt và nhu cầu, trình độ khách hàng ngày càng cao thì hoạt động Marketing có vị trí quan trọng đảm bảo thu hút và giữ chân khách hàng.
Mạng lưới hoạt động: mạng lưới mở rộng đến các khu vực đông dân cư, khu vực tiềm năng, khu vực dân cư có thu nhập cao,…Mạng lưới này bao gồm cả các chi nhánh, phòng giao dịch, hệ thống dịch vụ ngân hàng như máy ATM, các đơn vị đại lý,….