Chương V TRIỂN VỌNC CỦA CÔNG CUỘC CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA,
5.3. NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG THỜI
5.3.4. Yêu cầu mở rộng quyền làm chủ của công nhân trong một
Nước ta hiện nay đang rất cần phát huy các nguồn lực cho sự phát triển mà nguồn lực con người là nguồn lực lớn nhất của mọi nguồn lực. Phát huy nguồn lực con người chính là thực hiện và phát huy vai trò làm chủ của người dân, tổ chức tốt xã hội dân sự (civil society) sẽ là một đảm bảo quan trọng và thiết thực cho hoạt động ấy. Xã hội dân sự thúc đẩy phát triển và phát huy dân chủ. Khi mà chúng ta đang chứng kiến nhiều tổ chức, đoàn thể quần chúng đã không phát huy được vai trò vì gần như bị "Nhà nước hoá", “hành chính hóa”.
Xã hội dân sự rõ ràng đang là khâu yếu nhất vì chưa được chính thức thừa nhận là một trong 3 trụ cột của sự phát triển xã hội. Vì thế, đã đến lúc vấn đề
“xã hội dân sự” cần được đặt ra một cách nghiêm túc cùng với phát triển kinh tế thị trường và việc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, hội nhập khu vực hiện nay khi Nhà nước đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thì giai cấp công nhân, nhất là công nhân tại các khu công nghiệp, tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài càng phát triển mạnh, đông đảo về số lượng và nâng cao về chất lượng. Giai cấp công nhân càng phải thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của mình.
Ở Việt Nam, khái niệm xã hội dân sự vẫn là một khái niệm mới, được dùng trong vài năm trở lại đây, du nhập trong quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Theo GS.TS. Đặng Ngọc Dinh, Viện trưởng Viện những vấn đề phát triển (VIDS) thì xã hội dân sự bao gồm các tổ chức xã hội nằm ngoài nhà nước, nằm ngoài hoạt động của các doanh nghiệp, nằm ngoài gia đình để liên kết người dân với nhau trong những hoạt động vì mục đích chung. Tuy nhiên tư tưởng về xã hội dân sự, về vai trò của người dân trong xây dựng và củng cố nhà nước đã xuất hiện từ rất sớm. Điều này được thể hiện trong nhiều câu nói bất hủ của người xưa như “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”,
“Thả sức cho dân”, “Nước lấy dân làm gốc” hay “Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”, “Vận nước thịnh hay suy, mất hay còn là do sức mạnh của dân quyết định”. Và sinh thời Hồ Chủ Tịch cũng đã từng nói, “Nhà nước của ta là Nhà nước của dân”, “Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân”, "Vận mệnh quốc gia trong tay nhân dân". Hiện nay, theo tình thần và nội dung các
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X.
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2008, tr. 48-49
văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước ta thì khái niệm “xã hội dân sự” hay “xã hội” chính là nhân dân. Trong các văn bản đó chúng ta thường thấy các cách nói và viết như “Đảng lãnh đạo Nhà nước và lãnh đạo xã hội”, “Trong cơ quan nhà nước và ngoài xã hội”, “Trong Đảng và ngoài xã hội”, “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”… Nhân dân được hiểu ở đây bao gồm tất cả các tổ chức quần chúng và mọi người dân, các tổ chức chính trị - xã hội, kinh tế, nghề nghiệp… nhưng không thể hiện theo cách trực tiếp là những chủ thể “phi nhà nước” mà gắn bó chặt chẽ với Đảng và Nhà nước.
Như vậy, cuộc sống thực tế đang đặt ra yêu cầu định hình một cách chính thức xã hội dân sự để cùng với Nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Ở nước ta, Nhà nước pháp quyền còn có một số đặc điểm thể hiện định hướng chính trị, tính chất, bản chất riêng biệt của Nhà nước ta đó là:
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Có 2 điểm đặc biệt cần chú ý là:
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tất cả quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – đảng của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam. Đây là những vấn đề mang tính nguyên tắc, có tính chính trị - xã hội định hướng cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam trên thực tế.
Theo đó, Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước hợp hiến, hợp pháp, là nhà nước pháp quyền dân chủ. Nó hoàn toàn phù hợp với lý tưởng cộng sản mà Đảng và nhân dân ta đang theo đuổi. Tuy nhiên, để lý tưởng chính trị đó không trở thành khẩu hiệu, không dừng lại là ước nguyện thì nó phải được thực hiện trên cơ sở những điều kiện hiện thực buộc các chủ thể chính trị luôn phải tìm kiếm. Những điều kiện đó là gì?
Trong những năm gần đây để từng bước thực hiện dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền, chúng ta đã làm được nhiều việc: đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, hoàn thiện, sửa đổi luật, cũng như các văn bản dưới luật;
tăng cường các định chế kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật;
đổi mới bộ máy nhà nước từ việc tổ chức đến hoạt động thực tế của cơ quan quyền lực nhà nước; cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp; chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường nhằm giải phóng mọi
năng lực sản xuất xã hội, phát huy tính năng động sáng tạo, dân chủ của người dân trong lĩnh vực kinh tế…
Tuy nhiên, Nhà nước pháp quyền của ta chưa phát triển kịp so với đòi hỏi trong tính đồng bộ với kinh tế thị trường, chính vì thế mà có rất nhiều vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh (quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, vi phạm dân chủ... ta thường gọi là những căn bệnh của cơ chế), tạo nên lực cản của sự nghiệp đổi mới mà Đảng và chính bản thân Nhà nước chưa và không thể tự giải quyết được nếu không có sự điều chỉnh về thể chế, cơ chế. Phải chăng chúng ta chưa mạnh dạn nhìn nhận vấn đề từ bản chất của nó? Phải chăng chúng ta đã đánh đồng bản chất và tính chất của Nhà nước? Phải chăng đã đến lúc cơ chế phân quyền XHCN cần được thiết lập, từng bước thử nghiệm để làm cho Nhà nước ta vẫn giữ được bản chất là nhà nước dân chủ XHCN nhưng phải là Nhà nước pháp quyền mạnh hoạt động có hiệu lực, hiệu quả?
Vấn đề cơ bản nhất của Nhà nước pháp quyền là pháp quyền ở trên Nhà nước, các nhánh quyền lực “phân lập" để kiểm tra nhau, cơ quan nhà nước và công chức chỉ được làm những điều luật pháp cho phép, còn dân thì được phép làm tất cả những điều gì mà luật pháp không cấm, và để đảm bảo dân uỷ quyền mà không mất quyền thì công việc của Nhà nước và các cơ quan công quyền phải công khai và minh bạch trước dân, dân có quyền tham gia vào việc xây dựng pháp luật, giám sát và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Một Nhà nước pháp quyền như thế lại được định hướng bởi đường lối chính trị của Đảng Cộng sản cầm quyền thì sức mạnh ưu trội của sự kết hợp lý tưởng chính trị tốt đẹp và kỹ thuật pháp lý cao sẽ là một đảm bảo chắc chắn nhất cho sự vững mạnh của một nhà nước hiện đại.
Trong hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, điểm mới đáng chú ý so với cấu trúc của hệ thống chính trị như trước đây là sự hiện diện của các tổ chức xã hội rộng lớn của nhân dân, đặc biệt là các hội đoàn trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp, kinh doanh, dịch vụ xã hội... Tuy không trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước nhưng trong điều kiện của nền dân chủ XHCN, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên, các tổ chức này có tác động ngày càng to lớn đến đời sống kinh tế - chính trị của đất nước. Đảng, Nhà nước không quản lí trực tiếp đối với các tổ chức này nhưng có mối liên hệ mật thiết với các tổ chức đó. Đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước có được xây dựng và thực thi tốt hay không, nhất là các vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các thành viên tổ chức hiệp hội, không thể không tính đến vai trò và sự tác động tích cực của các tổ chức xã hội. Với ý nghĩa đó thì có thể quan niệm, các tổ chức xã hội được coi là hệ thống phản biện của hệ thống chính trị. Hoạt động tư vấn, giám định và phản biện xã hội đối với
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước phải được coi là hoạt động cơ bản và thể hiện sinh động nhất vai trò mới, rất tích cực của các tổ chức hiệp hội kinh tế - xã hội. Do vậy, cơ chế chính trị - pháp lý để vận hành mối liên hệ giữa hệ thống chính trị và hệ thống xã hội như đã nêu cũng được xác định là thành tố cơ bản trong cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay.
Mỗi loại tổ chức chính trị - xã hội lại có vai trò riêng, chẳng hạn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị – tổ chức liên hiệp tự nguyện của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo; là tổ chức đại diện cho ý chí đại đoàn kết và nguyện vọng chân chính của nhân dân; nơi tập hợp trí tuệ của mọi người Việt Nam yêu nước, nơi thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên, phối hợp với chính quyền thực hiện nền dân chủ, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; giám sát, bảo vệ, tham gia xây dựng Nhà nước, quản lý xã hội. Mặt trận Tổ quốc có chức năng giám sát và phản biện xã hội, đoàn kết nhân dân, chăm lo đời sống, lợi ích của các thành viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện lập ra nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam có tính chất quần chúng và tính chất giai cấp công nhân, có chức năng: Đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức lao động; tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục, động viên công nhân viên chức lao động phát huy quyền làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nếu nhìn từ góc độ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì cả hai hệ thống chính trị và hệ thống các tổ chức xã hội đều là những kênh thực hiện quyền lực nhân dân. Hệ thống chính trị tác động đến xã hội trên cơ sở quyền lực giai cấp - xã hội, đảm bảo sự định hướng và dẫn dắt, điều hành sự phát triển của cả xã hội. Do đó, hệ thống chính trị đảm bảo tính thống nhất của ý chí, nguyện vọng và quyền lực nhân dân. Hệ thống xã hội đảm bảo tính nhân bản và tính đa dạng của đời sống xã hội. Hệ thống xã hội không phải là hệ thống thụ động chịu sự tác động của hệ thống chính trị, phụ thuộc hoàn toàn vào hệ
thống chính trị mà cũng có vai trò, trách nhiệm chung với sự phát triển toàn diện của đất nước. Cả hai hệ thống đó không thể thiếu vắng và thay thế vai trò cho nhau. Nếu hệ thống này không tốt thì tất yếu dẫn đến sự bấp cập của hệ thống kia và ngược lại. Vì vậy, cả hai hệ thống chính trị và hệ thống xã hội hòa hợp thành thể thống nhất được gọi là hệ thống chính trị - xã hội. Tuy nhiên, điểm cần chú ý trong mối liên hệ biện chứng giữa hai hệ thống này là nếu hệ thống chính trị không có mục đích tự thân thì ngược lại hệ thống xã hội trong khi hoạt động vì mục tiêu cho chính hệ thống mình (mang tính xã hội) có nhu cầu và mong muốn tác động đến hệ thống chính trị một cách tự nhiên. Thành ra, dù khác nhau về phương thức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động nhưng nhìn tổng thể mục tiêu của cả hai hệ thống cuối cùng đều thống nhất ở chỗ vì con người, vì một xã hội tốt đẹp.