Yêu cầu nâng cao phẩm chất trí tuệ của đội tiền phong của giai cấp công nhân và của cả dân tộc

Một phần của tài liệu đề tài nghiên cứu xây dựng và phát triển văn hóa của giai cấp công nhân việt nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế (Trang 152 - 156)

Chương V TRIỂN VỌNC CỦA CÔNG CUỘC CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA,

5.3. NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG THỜI

5.3.5. Yêu cầu nâng cao phẩm chất trí tuệ của đội tiền phong của giai cấp công nhân và của cả dân tộc

Như chúng ta đã biết, những luận điểm của C. Mác về giai cấp công nhân được đưa ra trong điều kiện của văn minh công nghiệp. Những thành tựu mới của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại từ giữa thế kỷ XX, tiếp đó là cuộc cách mạng tin học, đã dần dần đưa nhân loại từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt chưa từng có của lực lượng sản xuất trong lịch sử nhân loại. Do vậy, tư duy mới về giai cấp công nhân phải là tư duy về giai cấp công nhân trong điều kiện của văn minh trí tuệ.

Quan điểm xuất phát nêu trên có căn cứ khoa học từ chủ nghĩa Mác hay thuộc loại quan điểm tư sản "duy lực lượng sản xuất"? Ai cũng biết, luận điểm của C. Mác về sự gắn bó giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất khác hẳn luận điểm còn phiến diện trước đó chỉ thấy hoặc nhấn mạnh một chiều vai trò của lực lượng sản xuất. C.Mác luôn luôn khẳng định vai trò quyết định của lực lượng sản xuất trong mối quan hệ với quan hệ sản xuất.

Ông cho rằng, sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác nhất thiết phải trải qua đấu tranh cách mạng của những giai cấp cách mạng, nhưng nhân tố quyết định nhất vẫn là bước nhảy vọt mới về chất của lực lượng sản xuất. Ông từng nói đại ý: máy hơi nước đẻ ra nhà tư bản. Nhân đây chúng tôi muốn nói thêm, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây là do nhiều nguyên nhân trực tiếp, nhưng nguồn gốc sâu xa là sự lạc hậu, bất cập của chủ nghĩa xã hội mô hình cũ và của ban lãnh đạo ở các nước này trước sự phát triển mới của văn minh nhân loại.

Giai cấp cách mạng muốn trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng thì, về mặt khách quan, phải đại biểu cho phương thức sản xuất mới, và về mặt

chủ quan, phải tổ chức ra đội tiên phong - chính đảng, của giai cấp mình. Đội tiên phong của giai cấp phải là bộ phận trí tuệ nhất, tiêu biểu cho trí tuệ của giai cấp và thời đại. Điều đó đúng với các giai cấp cách mạng trước đây cũng như với giai cấp công nhân ngày nay. Cần lưu ý thêm, điều đó dễ dẫn đến sự ngộ nhận rằng, lãnh đạo cách mạng phải là các tầng lớp trí thức chứ không phải là các giai cấp cách mạng trong lịch sử. Ở đây không nói đến động cơ chính trị của những người muốn cắm "tấm biển chỉ đường của trí tuệ" để bác bỏ vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, phủ nhận yêu cầu trí tuệ của đội tiên phong là rất sai lầm. Đội tiên phong - chính đảng của giai cấp cách mạng, là bộ phận lao động trí thức đặc biệt của giai cấp đó chứ không phải là tầng lớp trí thức nói chung trong xã hội.

Đội tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại nhất thiết phải là bộ phận trí tuệ nhất của giai cấp, của thời đại mới. Phải tiếp cận những thành tựu mới nhất của văn minh nhân loại, kết hợp với sự phân tích khoa học, trên cơ sở của phép biện chứng mác-xít, những điều kiện của thế giới ngày nay đang chịu sự tác động của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Từ đó, đề ra cương lĩnh, chiến lược, sách lược phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của quốc gia - dân tộc để từng bước tìm con đường giải phóng, vượt qua chủ nghĩa tư bản hiện đại, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện đại.

Trong thời đại ngày nay, bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản vẫn chỉ có thể là bản chất giai cấp của giai cấp công nhân; cơ sở chính trị - xã hội chủ yếu của Đảng Cộng sản phải là giai cấp công nhân trong quá trình phát triển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ; tư duy mới về giai cấp công nhân phải gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã hội hiện đại. Có thể nói, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự lạc hậu, bất cập trước đây của Đảng Cộng sản ở một số nước tư bản phát triển là do không nhận thức được điều này. Bởi vậy, ở đó, Đảng Cộng sản dần dần mất cơ sở chính trị - xã hội cần có của mình, gắn liền với những cương lĩnh ngày càng xa rời cuộc sống. Giai cấp công nhân hiện đại, nhân dân lao động không thấy được con đường đi tới một xã hội tốt đẹp hơn, mà đôi khi mất phương hướng và dường như kỳ vọng vào một tương lai nào đó trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại, khi ở đó xuất hiện và phát triển dần một số yếu tố của xã hội mới, nhưng đội tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại đã không nhận ra để làm sinh sôi nảy nở.

Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiền phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Bởi nhiều lẽ: Đảng là con đẻ của hai phong trào: phong trào công nhân và phong trào yêu nước (chứ không chỉ là con đẻ của phong trào công nhân như ở những nước tư bản). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn giương

cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó đặt nhiệm vụ dân tộc lên trên và lên trước, coi nhiệm vụ dân tộc là tiền đề, điều kiện tiên quyết và là cơ sở để hoàn thành nhiệm vụ giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng động viên sức mạnh toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, coi cách mạng xã hội chủ nghĩa không chỉ là nhiệm vụ giai cấp mà còn là nhiệm vụ dân tộc, định hướng cho nhiệm vụ dân tộc, bảo đảm độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc triệt để, tiến lên xã hội chủ nghĩa.

Nhận thức đúng bản chất và xu thế phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay, trên cơ sở đó, có chủ trương, chính sách thích hợp để tiếp tục mở rộng đội ngũ và nâng cao chất lượng giai cấp công nhân, khiến cho nó xứng đáng với vai trò lãnh đạo trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện đại, đó là yêu cầu đầu tiên và cũng là quan trọng nhất của đội tiên phong. Chúng ta thường nói, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp của giai cấp công nhân. Vậy bản chất đó là gì? Nó có phải là cái gì trừu tượng và bất biến không? Hay phải có những nội dung và yêu cầu cụ thể nhằm thể hiện bản chất đó? Trong bản chất đó, cái gì không thể thay đổi và cái gì cần phải phát triển? Không thể nói giữ vững và tăng cường được bản chất của giai cấp công nhân khi không hoàn thành những nhiệm vụ chính trị, kinh tế có tính chất thực tiễn cách mạng của nó.

Trong giai đoạn xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đội ngũ công nhân hình thành một giai cấp công nhân thống nhất đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, với vai trò là giai cấp lãnh đạo thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam được trang bị bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng và Nhà nước, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân - nông dân - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.

Chúng ta không phủ nhận những nhược điểm của giai cấp công nhân Việt Nam (như số lượng còn ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay nghề còn thấp...) mà nguồn gốc sâu xa là ở trình độ phát triển kinh tế chưa cao ở nước ta hiện nay. Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhânViệt Nam. Để khắc phục những nhược điểm ấy, Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VII của Đảng, gắn trực tiếp vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề xây dựng, phát triển giai cấp công nhân đã chỉ rõ phương hướng xây dựng giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là: “Cùng với quá trình phát triển công nghiệp và công nghệ theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,

cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình”1.

Từ đó, yêu cầu đặt ra đối với Đảng, chính quyền và Công đoàn các cấp hiện nay là phải làm sao quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện tốt các quan điểm, tư tưởng Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (khóa X) về "Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Ðẩy mạnh hơn nữa công tác vận động, thu hút ngày càng đông đảo công nhân, viên chức, lao động tự giác gia nhập và tham gia hoạt động Công đoàn. Ðổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ giác ngộ giai cấp, ý thức tổ chức, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp;

nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp cho công nhân, viên chức, lao động; chăm lo xây dựng và phát triển đời sống văn hóa của giai cấp công nhân. Quan tâm hơn nữa công tác phát triển Ðảng trong công nhân, viên chức, lao động; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học để đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân và hoạt động Công đoàn trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Qua đó, góp phần giúp cho Ðảng, Nhà nước có đầy đủ căn cứ khoa học đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, phù hợp nhằm phát huy đến mức cao nhất mọi tiềm năng sáng tạo trí tuệ to lớn của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân nói chung trong quá trình tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức, xây dựng xã hội học tập, thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII.

Lưu hành nội bộ, Hà Nội 1994, tr. 98

Chương VI

Một phần của tài liệu đề tài nghiên cứu xây dựng và phát triển văn hóa của giai cấp công nhân việt nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế (Trang 152 - 156)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(206 trang)