Giải pháp về lao động, việc làm, thu nhập và các quyền lợi

Một phần của tài liệu đề tài nghiên cứu xây dựng và phát triển văn hóa của giai cấp công nhân việt nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế (Trang 158 - 165)

Chương VI QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG

6.2. KIẾN NGHỊ VỀ CÁC GIẢI PHÁP

6.2.1. Giải pháp về lao động, việc làm, thu nhập và các quyền lợi

- Chính sách vic làm Vấn đề lao động, việc làm của công nhân luôn là mối quan tâm hàng

đầu từ trước đến nay vì nền kinh tế nước ta phát triển chậm, chưa đáp ứng được mức cung về lao động của xã hội. Việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận

công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Như phần trên đã trình bày, năm 2009, cả nước chỉ có 83% công nhân có việc làm ổn định, 12% công nhân làm việc không ổn định và 2,7% công nhân thường xuyên thiếu việc làm.

Trong những năm qua, chúng ta đã tiến hành nhiều giải pháp đầu tư phát triển sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng thêm nhiều khu công nghiệp mới; đồng thời mở rộng hợp tác xuất khẩu lao động sang các nước, giải quyết việc làm cho người lao động, do đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, số lao động xã hội của nước ta có việc làm ổn định ngày càng tăng lên. Tuy nhiên, dân số nước ta là dân số trẻ, hàng năm số người bước vào tuổi lao động tăng cao khiến cho vấn đề giải quyết việc làm vẫn là vấn đề bức xúc. Hơn nữa, trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, số doanh nghiệp có công nghệ lạc hậu chiếm tỷ lệ cao, sức cạnh tranh hạn chế, dẫn đến tình trạng hiệu quả kinh tế không cao, một số phải bị giải thể, phá sản. Đối với các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp chủ yếu làm hàng gia công cho nước ngoài bị phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố ngoại nhập (từ nguyên vật liệu đến kỹ thuật, công nghệ…) nên lợi nhuận thu được rất thấp (ví dụ đối với hàng dệt may, lợi nhuận ta thu về chỉ đạt 14%), số công nhân thiếu hoặc mất việc làm, bị thất nghiệp còn chiếm tỷ lệ cao. Tuy vậy, ở nước ta hiện nay vẫn xảy ra hiện tượng nơi thừa, nơi lại thiếu lao động. Tình trạng

“nhảy việc” diễn ra khá phổ biến.

Quyền có việc làm và quyền được làm việc là một trong những lợi ích cơ bản của người lao động; thu nhập là hệ quả của việc làm nhưng cũng là lợi ích cơ bản, đôi khi còn quyết định tới sự lựa chọn việc làm. Ngày nay, việc làm đã được quan niệm lại như sau:

Theo điều 13, Bộ luật Lao động: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm. Giải quyết việc làm bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội”.

Khái niệm này đã làm thay đổi một cách cơ bản về phương hướng giải quyết việc làm và tạo ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động, đặc biệt là lao động nữ. Bởi vì phạm vi việc làm đã được mở rộng trên hai góc độ:

- Thị trường việc làm bao gồm tất cả các thành phần kinh tế, mọi hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh (kinh tế hộ gia đình, tổ hợp, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp lớn…) và sự đan xen giữa các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh.

- Người lao động được tự do làm ăn, tự tạo việc làm là chính để giải quyết việc làm cho chính mình và thu hút thêm lao động xã hội theo quan hệ cung cầu về lao động trên thị trường lao động, không phải là sự phân công, bố trí của Nhà nước một cách hành chính theo kiểu biên chế suốt đời.

Điều 14, Bộ luật Lao động chỉ rõ rằng, Nhà nước áp dụng các biện pháp khuyến khích để người có khả năng lao động tự giải quyết việc làm.

Như vậy, quan niệm việc làm ở đây hoàn toàn mở rộng và chủ thể lao động phải tự tạo việc làm. Chúng ta sống trong điều kiện bao cấp đã lâu, nhận thức về việc làm chưa chuyển biến kịp thời trước công cuộc đổi mới, chưa làm chuyển biến nhận thức là phải tự tạo việc làm, không ỷ lại, không trông chờ.

Ngay cả Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội mới quan tâm tới giới thiệu việc làm, các trung tâm xúc tiến việc làm cũng mới đào tạo những nghề mà dự đoán các nơi có nhu cầu để làm môi giới giới thiệu. Tuy là việc làm cần thiết nhưng quan trọng hơn vẫn là đào tạo thế nào để người lao động có ý thức và có khả năng tự tạo ra việc làm.

Trong cơ chế thị trường, tuyển dụng lao động được thực hiện theo phương thức hợp đồng lao động. Khái niệm việc làm ổn định chỉ mang ý nghĩa tương đối. Người lao động có thể thay đổi việc làm từ ngành nghề này sang ngành nghề khác, từ thành phần kinh tế này sang thành phần kinh tế khác và từ hình thức sản xuất kinh doanh này sang hình thức kinh doanh bất kỳ.

Chính sách việc làm là chính sách cơ bản nhất trong hệ thống chính sách xã hội ở nước ta. Chính sách này phải gắn chặt với chính sách phát triển kinh tế.

Chính sách việc làm phải hướng vào tiếp tục phát huy tiềm năng lao động, khuyến khích các lĩnh vực, các ngành nghề, khuyến khích người có vốn, có kỹ thuật và công nghệ, có trình độ quản lý… đầu tư vào sản xuất kinh doanh, để tạo ra việc làm mới, thu hút thêm lao động xã hội, góp phần làm cho giai cấp công nhân phát triển. Thị trường lao động cũng đang hình thành cùng với phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Dù chính sách việc làm có hoàn hảo đến đâu, nhưng do quan hệ cung cầu lao động thường xuyên biến động, nên nhiều khi vẫn xảy ra thất nghiệp hoặc thiếu việc làm.

Bởi vậy, phải có cơ chế và biện pháp kiểm soát được thị trường lao động nhằm hạn chế tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp nhất.

Nội dung chính sách việc làm nên tập trung giải quyết 3 vấn đề lớn:

Một là, Nhà nước cần quan tâm ưu tiên phát triển những công trình có khả năng thu hút nhiều lao động; tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư vốn phát triển sản xuất.

Hai là, điều kiện cho người lao động tìm được việc làm trong tình hình hiện nay là trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp có khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại. Trước mắt cần có chính sách đào tạo, đào tạo lại, đáp ứng các yêu cầu cấp bách; cần có cơ chế, chính sách xã hội hóa việc đào tạo, tạo điều kiện cho người lao động tự đào tạo. Tiếp theo là các chính sách tạo điều kiện về dịch vụ việc làm: thông tin, giới thiệu, chuyển dịch nghề nghiệp, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi.

Ba là, cần sớm thành lập Quỹ trợ cấp thất nghiệp. Tinh thần chính sách trợ cấp thất nghiệp là trợ cấp để người lao động có điều kiện trau dồi thêm kỹ năng nghề nghiệp, do đó tăng khả năng tìm việc làm mới. Ngoài ra, cũng cần thành lập Quỹ cứu trợ đối với những người lao động nghèo đói.

Muốn cho hàng hóa sức lao động có giá trị theo nội dung thứ hai thì phải đầu tư, tức là phải học nghề để biết nghề, phải học nghề để nâng cao trình độ tay nghề, tiếp cận công nghệ mới để cạnh tranh có hiệu quả, biết nhiều nghề càng tốt (để chuyển nghề) nhưng phải tinh xảo. Nhà nước cần có phương án và những quy định chặt chẽ trong các tình huống chuyển dịch công nghiệp - công nghệ kéo theo là chuyển dịch công nhân tương ứng, các phương án phát triển sản xuất, dịch vụ phải đi kèm với phương án đào tạo và đào tạo lại. Chỉ có thế đội ngũ của giai cấp công nhân mới được phát triển về số lượng và chất lượng theo quy luật đào thải tự nhiên của xã hội.

+ Để phát triển nguồn nhân lực, lao động và việc làm, trước hết cần phân bổ lao động theo khu vực địa lý. Tập trung phát triển công nghiệp ở khu vực ngoại thành, đồng thời có sự phối hợp tốt với các tỉnh khác sẽ giảm lực lượng lao động di chuyển vào các khu vực nội thành, tạo ra sự phát triển cân đối giữa hai khu vực và sự phát triển ngành nghề chung của cả nước.

+ Điều chỉnh cơ cấu nghề nghiệp và phân công lao động xã hội. Hiện nay 80-90% giá trị sản xuất công nghiệp do khu vực kinh tế ngoài nhà nước tạo ra. Lực lượng lao động trong khu vực kinh tế nhà nước đang có xu hướng giảm, khu vực dân doanh tăng dần. Trong những năm tới, khu vực kinh tế nhà nước chỉ nắm giữ những lĩnh vực then chốt, do vậy khu vực kinh tế ngoài nhà nước sẽ thu hút lao động chủ yếu, là trọng điểm trong vấn đề giải quyết việc làm.

+ Cần có chính sách thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh cho các doanh nghiệp, nhất là

doanh nghiệp dân doanh nhằm tạo tâm lý an tâm, thu hút lao động vào làm việc trong khu vực kinh tế này.

+ Đẩy mạnh phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất. Phát triển các KCN sẽ mở ra không gian kinh tế rộng lớn, một thị trường thu hút lao động, giải quyết việc làm. Hiện nay, lao động làm công ăn lương có khoảng 11 triệu, trong đó 80% tập trung ở vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn và ở các khu công nghiệp tập trung. Không những vậy, KCN là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật, phù hợp với công nghệ mới, do đó lao động phổ thông về cơ bản được đào tạo, kèm cặp tại doanh nghiệp.

- Chính sách tin lương, tin công

Tiền lương, tiền công hiện nay ở nước ta chưa thật sự trở thành động lực mạnh mẽ để thúc đẩy sản xuất, thậm chí có khi còn là nguyên nhân gây ra các hiện tượng tiêu cực xã hội, làm cho kỷ cương, luật pháp bị xem nhẹ, sự gắn bó công nhân với doanh nghiệp không chặt chẽ.

Tiền lương, tiền công trong cơ chế thị trường, trong cơ cấu kinh tế đa dạng… đòi hỏi phải nghiên cứu nghiêm túc tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong nước, đặc biệt là tình hình khu vực để đề ra nội dung chính sách và tổ chức thực hiện cho phù hợp.

Trong toàn bộ nguồn thu nhập của người lao động, thì nguồn thu nhập từ tiền lương (tiền công) là quan trọng nhất, là nguồn thu chủ yếu trong đời sống của người lao động, thể hiện qua chính sách tiền lương.

Tiền lương là vũ khí cạnh tranh của các doanh nghiệp, là yếu tố thu hút đầu tiên đối với người lao động. Khảo sát vấn đề tiền lương, chúng ta được biết, lao động phổ thông có mức lương cơ bản hàng năm tăng 7%, nhân viên văn phòng (bao gồm nhân viên văn phòng, chuyên gia, nhà quản lý) tăng 10%. Đây là yếu tố tích cực trong phát triển kinh tế, song cũng dẫn đến sự giành giật nhân lực lao động trình độ cao giữa các doanh nghiệp.

Cải cách chế độ tiền lương, tiền công trong các doanh nghiệp là biện pháp quan trọng, quyết định đến việc làm, đảm bảo đời sống vật chất và nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động.

Giải pháp cụ thể gồm:

+ Sửa đổi hệ thống lương, bậc của thang lương, bảng lương, ngạch lương, chế độ nâng lương phù hợp để tiền lương làm tốt chức năng khuyến khích, kích thích người lao động, tạo động lực cho giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

+ Mức lương trả cho người lao động cần căn cứ vào đặc điểm loại công việc, mức độ thực hiện công việc và hiệu quả công việc có kết hợp với trình độ, bằng cấp mà người lao động đạt được.

+ Tiền lương phải được xây dựng và trả trên nguyên tắc phân phối theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc.

+ Thực hiện mức lương tối thiểu thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp, tạo sự bình đẳng và thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước phát huy vai trò chủ động trong sản xuất, quản lý kinh doanh.

+ Thực hiện mức lương tối thiểu theo ngành và theo vùng.

+ Kết hợp tốt việc trả lương và trả thưởng cho người lao động.

Đi đôi với việc giải quyềt vấn đề tiền lương, tiền thưởng, Nhà nước và các doanh nghiệp cần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp bằng biện pháp tuyển chọn, bố trí lao động “đúng người, đúng việc, đúng thời gian”; tăng cường đánh giá công việc, có hình thức khen thưởng và sử phạt nhằm tạo động lực lao động và nâng cao hiệu quả sử dụng lao động trong doanh nghiệp.

- Chính sách bo h lao động, bo him xã hi

Sức khỏe và an toàn lao động là yếu tố quan trọng đối với việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân. Nhà nước cần thực hiện nghiêm các chính sách, pháp luật về lao động, bảo hiểm và an sinh xã hội.

Các doanh nghiệp cần có kế hoạch và biện pháp chăm lo cải thiện điều kiện lao động, bảo đảm an toàn lao động; chú trọng nâng cao chất lượng bữa ăn giữa ca và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong các nhà ăn tập thể. Nhà nước và chính quyền các địa phương cần tiếp tục đầu tư, nâng cấp các bệnh viện quận, huyện và trạm y tế xã, phường, thị trấn nơi có đông công nhân; có cơ chế liên kết giữa ngành y tế với các khu công nghiệp, khu chế xuất, các doanh nghiệp để chăm sóc sức khỏe, khám và điều trị bệnh cho công nhân, kể cả ngoài giờ.

Những năm qua, Nhà nước, các doanh nghiệp đã có nhiều quan tâm đầu tư cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân. Song do trình độ phát triển khoa học công nghệ nước ta còn thấp, quy mô doanh nghiệp nước ta chủ yếu là vừa và nhỏ, tiềm lực tài chính còn hạn chế, nên chưa quan tâm đầu tư đổi mới công nghệ, cải thiện điều kiện lao động, môi trường làm việc.

Hiện nay, gần 40% công nhân phải làm việc ở doanh nghiệp có điều kiện làm việc ở mức trung bình và kém, môi trường làm việc nóng bức không được trang bị, hoặc trang bị không đầy đủ các phương tiện bảo hộ lao động.

Nhiều doanh nghiệp không huấn luyện, trang bị kiến thức về an toàn vệ sinh

lao động cho công nhân, số công nhân bị mắc bệnh nghề nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao và đang có xu hướng tăng. Đặc biệt tai nạn lao động nặng, tai nạn lao động chết người xảy ra những năm qua là khá nghiêm trọng và có xu hướng tăng nhanh.

Thực trạng trên đòi hỏi Nhà nước phải tăng cường kiểm tra, giám sát điều kiện, môi trường làm việc, có chế tài xử phạt việc vi phạm an toàn lao động nhằm đảm bảo sức khỏe cho công nhân.

Trong các doanh nghiệp nhà nước, tỷ lệ công nhân được ký kết hợp đồng lao động tương đối cao (khoảng 90%). Tuy nhiên ở khu vực này vẫn còn tình trạng công nhân chỉ được ký kết hợp đồng lao động ngắn hạn, hợp đồng thời vụ, mặc dầu việc làm của họ là ổn định, lâu dài nhất là một số doanh nghiệp thuộc các ngành xây dựng, giao thông, dệt may, giày da…

Trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, tỷ lệ công nhân được ký kết hợp đồng lao động chỉ khoảng 70%, trong đó khoảng 50% số công nhân được ký kết hợp đồng lao động dài hạn. Không ký hợp đồng lao động hoặc ký ngắn hạn, thời vụ là hình thức trốn tránh đóng bảo hiểm xã hội cho công nhân.

Nhiều doanh nghiệp chỉ đóng bảo hiểm xã hội cho các nhân viên quản lý và một số công nhân có trình độ chuyên môn cao, nhưng mức đóng thấp hơn nhiều so với thu nhập thực tế.

Tình trạng chiếm dụng, nợ đọng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế diễn ra khá phổ biến ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tính đến nay các doanh nghiệp nợ bảo hiểm xã hội là 2.156 tỷ đồng, chỉ tính riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, 33 doanh nghiệp đã nợ số tiền bảo hiểm xã hội gần 18,2 tỷ đồng. Qua khảo sát thực tế đầu năm 2008 tại 10 doanh nghiệp ở Cà Mau có tới 2.927/9.315 lao động chưa được đóng bảo hiểm xã hội. Tại Hà Nội số lao động thuộc khối doanh nghiệp ngoài nhà nước tham gia bảo hiểm y tế chỉ có 14%. Tình trạng này gây thất thu cho ngành bảo hiểm và nhiều thiệt thòi cho người lao động.

Đảm bảo cuộc sống gia đình cho công nhân là yếu tố quan trọng để công nhân có điều kiện sản xuất tốt cũng như có điều kiện tham gia các hoạt động văn hoá, xã hội. Chính quyền địa phương và doanh nghiệp cần thiết đầu tư xây dựng mới và nâng cấp các nhà trẻ, trường mẫu giáo nơi có đông công nhân cư trú để đảm bảo cuộc sống và tái sản xuất sức lao động. Nhà nước cần có cơ chế để ngành giáo dục liên kết với các khu công nghiệp, khu chế xuất, các doanh nghiệp tổ chức giữ trẻ là con của công nhân sao cho phù hợp với giờ lao động của công nhân.

Một phần của tài liệu đề tài nghiên cứu xây dựng và phát triển văn hóa của giai cấp công nhân việt nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế (Trang 158 - 165)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(206 trang)