Bi ện pháp thứ hai: hình thành và bồi dương cho sinh viên những kỹ năng tự học

Một phần của tài liệu một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động tự học của sinh viên khoa lý trong quá trình giảng dạy môn điện đại cương (Trang 47 - 57)

CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN KHI GI ẢNG DẠY BỘ MÔN ĐIỆN ĐẠI CƯƠNG

2.2. M ột số biện pháp tể chức hoạt động tự học của sinh viên khi giảng dạy môn điện đại cương

2.2.2. Bi ện pháp thứ hai: hình thành và bồi dương cho sinh viên những kỹ năng tự học

Theo các nhà tâm lý học, kỹ năng là năng lực sử dụng hệ thống những tri thức nói chung, những dữ kiện, khái niệm nói riêng đã có để phát hiện ra những thuộc tính của sự vật, hiện

48

tượng và giải quyết thành công những nhiệm vụ lý luận hay thực tiễn nhất định. Trên cơ sở các kỹ năng lao động chung, các nhà giáo dục đã coi kỹ năng học tập của sinh viên là một loại kỹ năng chuyên biệt của hệ thống các kỹ năng sư phạm và được sử dụng để lĩnh hội tri thức nói riêng, phát triển trí tuệ nói chung trong quá trình học tập. Kỹ năng tự học trước hết là những kỹ năng học tập được sử dụng trong hoạt động tự học.

Kỹ năng tự học là cơ sở ban đầu để sinh viên thực hiện được các công việc cụ thể trong tự học. Nó cũng là những điều kiện vật chất bên trong để sinh viên biến động cơ tự học thành những kết quả cụ thể. Để hoạt động tự học được tiến hành có hiệu quả, trước hết sinh viên cần phải có kỹ năng thực hiện các hành động tự học để giải quyết các nhiệm vụ nhận thức. Để nâng cao chất lượng tự học thì cần phải hoàn thiện và phát hiện những kỹ năng thực hiện các hành động tự học.

Kỹ năng tự học được hình thành trên cơ sở sinh viên hiểu được cách thực hiện các hành động tự học và phải trải qua một quá trình tập luyện như quan sát, làm thử, tập vận dụng vào các điều kiện và tình huống học tập phức tạp dần.Vì vậy, trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần phải chú ý rèn luyện các kỹ năng tự học cho sinh viên. Các kỹ năng tự học của sinh viên rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên để cho hoạt động tự học của sinh viên đạt được kết quả tốt, theo chúng tôi, sinh viên cần phải nắm được một số kỹ năng tự học cơ bản sau:

2.2.2.1.Kỹ năng xây dựng kế hoạch tự học.

Kỹ năng xây dựng kế hoạch tự học bảo đảm cho kế hoạch tự học được xây dựng cố tính khoa học và khả thi, thể hiện ở sự bố trí, sắp xếp các công việc, phân phối thời gian cho từng công việc, xác định phương pháp và các hình thức tổ chức thực hiện từng công việc và mức độ hoàn thành chúng, phù hợp với khả năng và những đặc điểm riêng của từng cá nhân.

Kỹ năng tự học phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:

- Đảm bảo thời gian tự học cho từng bộ môn tương xứng với lượng thông tin của bộ môn đó. Trong quá trình học tập, sinh viên phải học nhiều môn học, mỗi môn học có vị trí và khối lượng thông tin cũng như nội dung thông tin khác nhau. Vì vậy sinh viên cần phải cân nhắc, phân phối thời gian tự học cho từng bộ môn một cách hợp lý. Thông thường số tiết tự học tương đương với số tiết học chính khóa.

49

- Đảm bảo xen kẽ hợp lí giữa việc học lý thuyết và làm bài tập, giữa các bộ môn có tính chất khác nhau. Trong quá trình tự học, sinh viên phải thực hiện lao động trí óc căng thẳng.

Nếu chỉ tiến hành một loạt các hoạt động tự học đơn điệu thì có thể làm giảm sút năng lực làm việc, sinh viên sẽ chóng bị mệt mỏi và mất hứng thú học tập. Vì vậy khi sắp xếp các hoạt động tự học, cần phải luân phiên các dạng tự học khác nhau, chẳng hạn như: chuyển từ học lý thuyết, nghiên cứu, đọc sách, sang làm bài tập, hoặc chuyển từ việc học các môn khoa học tự nhiên sang học các môn học xã hội...

- Bảo đảm xen kẽ , luân phiên hợp lý giữa tự học và nghỉ ngơi.

Trong tự học, do phải lao động trí óc căng thẳng, sinh viên dễ bị rơi vào trạng thái mệt mỏi và chán nản làm giảm sút hiệu quả tự học. Vì vậy, nghỉ ngơi một cách hợp lý sẽ tạo ra sức khỏe tốt, trí óc sảng khoái minh mẫn. Nghỉ ngơi không có nghĩa là không hoạt động gì mà là thay đổi tính chất công việc và tư thể để chuyển qua một lĩnh vực hoạt động mới. Vì vậy cần luân phiên, xen kẽ giữa lao động trí óc và lao động chân tay, vận động thân thể như tập thể dục, đi lại, hít thở sâu... Nghỉ ngơi hợp lý sẽ giúp cho các chức năng hoạt động của cơ thể và của vỏ não được hồi phục. Khi đó sức học tập, sức làm việc sẽ được tăng cường, hiệu quả công việc cao hơn.

- Đảm bảo tính mềm dẻo, tính thực tế của kế hoạch và thời gian biểu tự học: Kế hoạch và thời gian biểu tự học cần xây dựng sao cho có tính mềm dẻo và có tính thực tế. Sinh viên cần phải phân biệt được những công việc có tầm quan trọng và có tính cấp thiết khác nhau, biết cân đối thời gian cho các môn học khác nhau với quỹ thời gian tự học của mỗi cá nhân.

Để có một kế hoạch tự học hợp lý, thỏa mãn các yêu cầu trên, cần phải tiến hành xây dựng kế hoạch tự học theo các bước sau:

+ Thông kê tất cả những công việc cần phải tiến hành trong tời gian tự học.

+ Xác định quỹ thời gian tự học: Đó là thời gian thực sự đành cho học tập.

+ Xác định khối lượng và những yêu cầu đạt được của mỗi công việc, ở đây cần chú ý tới những công việc quan trọng nhất.

+ Xác định thời gian hoàn thành, mức độ hoàn thành của mỗi công việc.

50

+ Sắp xếp và phân phối thời gian cho từng công việc, xác định thời gian cụ thể sẽ thực hiện chúng theo các mốc đã được xác định trên.

+ Kiểm tra lại sự hợp lý của kế hoạch.

2.2.2.2.Kỹ năng nghe giảng.

Trong quá trình học tập, một phần tri thức được sinh viên lĩnh hội bằng con đường nghe bài giảng của giáo viên. Để có thể hiểu, nắm vững tri thức qua các giờ giảng, sinh viên phải chú ý lắng nghe phần trình bày của giáo viên và bạn bè trong lớp kết hớp với sử dụng các thao tác tư duy ( phân tích, tổng hợp, khái quát, so sánh...) và ghi chép trên lớp. Việc nghe giảng phải được sinh viên tiến hành theo ba bước sau:

Bước 1: Chuẩn bị nghe giảng.

Để nghe giảng có hiệu quả, trong thời gian tự học, sinh viên cần phải thực hiện các công việc sau:

Ôn tập lại những kiến thức cũ bằng cách xem lại những bài học, bài tập đã được học.

Nghiên cứu trước một số nội dung của bài mới, chỗ nào khó hoặc không hiểu có thể đánh dấu lại để khi nghe giảng đến đó sẽ chú ý hơn hoặc đế xuất những thắc mắc suy nghĩ của mình với giáo viên.

Tìm đọc một số tài liệu liên quan tới bài mới.

Bước 2: Nghe giảng trên lớp.

Khi nghe giảng, sinh viên cần nhanh chóng nắm được lôgic của bài giảng theo từng phần, từng mục và vận dụng vốn hiểu biết của mình để so sánh, đối chiếu với lời giảng của giáo viên.

Trong khi nghe giảng, nếu có ý kiến bất đồng nào thì sinh viên nên mạnh dạn đề xuất những suy nghĩ của mình hoặc đánh dấu lại, sau này trao đổi vấn đề đó với giáo viên hoặc bạn bè trong lớp. Quá trình nghe giảng trên lớp phải luôn gắn chặt với quá trình tư duy tích cực của cá nhân người học.

51

Sinh viên cần phải có kỹ xảo viết nhanh, ghi chép theo cách riêng của mình, theo sự hiểu biết của mình. Muốn vậy, phải biết tập trang ghi một cách ngắn gọn nhất, chính xác nhất những ý chính, những điều cơ bản của bài giảng.

Không nên chờ đợi giáo viên đọc và ghi chép máy móc theo tòng lời của giáo viên. Có thể gạch chân hoặc đánh dấu những nội dung quan trọng của bài giảng.

Bước 3: Xem lại và chỉnh lý bài ghi.

Ở đại học, bài giảng của giáo viên chỉ có tính chất hướng dẫn, gợi ý chứ không phải là sự trình bày hoàn chỉnh, trọn vẹn một vấn đề. Vì vậy sinh viên phải xem lại bài giảng, kết hớp với việc đọc tài liệu, đọc sách để sắp xếp lại và hoàn chỉnh bài giảng. Qua đó sinh viên sẽ khắc sâu thêm tri thức, mở rộng, bổ sung và đưa ra những cách lý giải, cách nhìn nhận độc lập của mình về các vấn đề của bài giảng. Như vậy, sinh viên sẽ tự mình chiếm lĩnh tri thức một cách trọn vẹn.

2.2.2.3.Kỹ năng đọc sách và đọc tài liệu trong hoạt động tự học.

Hoạt động tự học bao giờ cũng liên quan tới việc đọc sách, báo, các tài liệu khoa học. Vì vậy, các nhà sư phạm đã nhấn mạnh: Đọc sách là công việc chủ yếu của hoạt động tự học. Tuy nhiên, đọc sách không phải là mục đích của tự học, “thực chất của việc học tập không phải là đọc được bao nhiêu cuốn sách mà là phải đọc và nghiên cứu như thế nào, tức là phải suy nghĩ, nghiền ngẫm sao cho tất cả những gì đọc được đều có thể tiếp thu được” [32]. Để đọc sách có hiệu quả cao và đỡ tốn thời gian, công sức, sinh viên cần phải đạt được những yêu cầu sau:

- Phải có mục đích rõ ràng khi đọc sách: Mục đích đọc sách sẽ định hướng cho toàn bộ quá trình đọc, chi phối cách đọc và phương pháp khai thác các vấn đề trong sách. Khi xác định mục đích đọc, phải trả lời các câu hỏi: Đọc để làm gì? đọc chỗ nào? đọc như thế nào ? Mục đích đọc sách phải rõ ràng cụ thể. Từ những mục đích đó, sinh viên sẽ định hướng được quá trình đọc, lựa chọn cách đọc nhằm khai thác những vấn đề trong sách.

- Phải lựa chọn sách hợp lý: Từ mục đích đọc sách, sinh viên cần biết lựa chọn sách phù hợp với vấn đề mình đang cần nghiên cứu, việc lựa chọn sách cần được tiến hành sao cho vừa đảm bảo độ sâu, vừa đảm bảo chiều rộng của vấn đề cần nghiên cứu. Muốn vậy, sinh viên phải

52

biết cách tra cứu danh mục tài liệu trong thư viện và biết cách sử dụng mục lục trong các cuốn sách.

- Phải nắm vững phương pháp đọc sách: Căn cứ vào mục đích đọc sách sinh viên có thể sử dụng các phương pháp đọc sách sau:

+ Đọc lướt qua nhằm tìm hiểu một cách khái quát toàn bộ nội dung của cuốn sách hoặc nội dung liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu, nhưng không nghiền ngẫm kỹ.

+ Đọc kỹ một phần cuốn sách (đọc đi đọc lại và nhận xét đánh giá những chi tiết, những đặc điểm và những nội dung cần thiết).

+ Đọc có trọng điểm: Đọc kỹ (có sự suy nghĩ) những luận điểm quan trọng, những phần có liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu.

Mỗi cách đọc sách đều phù hợp với mỗi mục đích nhất định. Trong quá trình tự học, sinh viên cần phối hợp các cách đọc sách để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể.

- Tích cực tư duy khi đọc sách: Trong quá trình đọc sách, sinh viên cần phải sử dụng các thao tác tư duy như: phân tích, khái quát hóa, trừu tượng hóa để phát hiện ra những thuộc tính bản chất, những vấn đề chủ yếu, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá, những kết luận đúng đắn về vấn đề cần quan tâm.

- Phải thường xuyên luyện tập để có kỹ thuật và tốc độ đọc hợp lý: Khi đọc sách phải nắm vững nội dung những thuật ngữ mới, khó hiểu và luyện tập thường xuyên để tăng dần tốc độ đọc sách mà vẫn đạt được những mục đích cần đọc, không hạ thấp chất lượng nắm tài liệu.

- Phải ghi chép một cách khoa học những điều đã đọc: hiệu quả của việc đọc sách được thể hiện ỏ kết quả ghi chép được trong khi đọc. Ghi chép có vai trò rất quan trọng nhằm hỗ trợ cho trí nhớ, tập trung tư tưởng trong quá trình học tập, nghiên cứu là công cụ để tích lũy tư liệu trong quá trình học tập, nghiên cứu.

2.2.2.4.Kỹ năng giải bài tập vật lý trong hoạt động tự học.

Những bài tập vậy lý tự giải là những yêu cầu, đòi hỏi cụ thể của giáo viên mà sinh viên có trách nhiệm phải hoàn thành nó trong quá trình tự học. Kỹ năng giải bài tập vật lý góp phần quyết định sự hoàn thành nhiệm vụ tự học của sinh viên. Để giải các bài tập vật lý, sinh viên

53

phải huy động tri thức, kỹ năng đã có vào hoàn cảnh cụ thể nhằm giải quyết các yêu cầu được đặt ra trong bài tập. Quá trình giải bài tập diễn ra nhờ các thao tác tư duy như: phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa... cho tới khi “hình thành được mô hình về một mặt nào đó của đối tượng có ý nghĩa bản chất đối với việc giải bài tập đã cho” [30 ]. Trong quá trình đó, mỗi khám phá ra khía cạnh mới của đối tượng tiến dần tới lời giải sẽ đẩy tư duy tiếp tục diễn ra cho tới khi đạt được “cái phải tìm”. Đây chính là quá trình tư duy đi tìm lời giải của bài tập.

Thông qua việc giải các bài tập vật lý mà người học sẽ nắm vững hơn, củng cố và mở rộng hơn những tri thức đã được lĩnh hội, biết vận dụng những tri thức đã có vào những tình huống khác nhau.

Mặt khác, việc giải các bài tập vật lý còn bồi dưỡng cho người học năng lực tư duy logic, độc lập và sáng tạo, góp phần hình thành năng lực nghiên cứu khoa học. Vì vậy, trong quá trình dạy học cần phải thường xuyên tăng cường giao những bài tập vật lý dưới dạng những “vấn đề”

hoặc “tình huống có vấn đề” để kích thích sinh viên tìm tòi khám phá ra cái mới. Sinh viên có thể giải các bài tập vật lý theo các bước sau:

- Nghiên cứu kỹ đề bài để hiểu rõ yêu cầu của bài tập.

- Phân tích đề bài, xác định giả thiết đã cho và những “cái cần tìm”.

- Phân tích những dữ kiện của giả thiết và mối liên hệ giữa chúng.

- Phân tích mối liên hệ giữa các dữ kiện đã cho và những “cái cần tìm”.

- Lập kế hoạch giải và thực hiện quá trinh giải để tìm đáp số.

- Kiểm tra kết quả vừa thu được.

2.2.2.5.Kỹ năng khái quát hóa.

Khái quát hóa là thao tác tư duy diễn ra trong mối quan hệ chặt chẽ với các thao tác hoạt động trí tụê như: phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa... , đồng thời gắn liền với sự cải biến các tài liệu cảm tính ban đầu nhằm tìm ra bản chất của sự vật, hiện tượng. Trong thực tế người ta quan tâm tới con đường khái quát hóa là: Từ những yếu tố, những sự vật cụ thể rồi suy ra cho cả nhóm.

54

Khái quát hóa là tách ra từ các sự vật, hiện tượng những cái chung, từ cái chung đó mà ta thống nhất lại với nhau tạo thành mô hình khái quát tương ứng. Từ mô hình khái quát này, học sinh có thể vận dụng để giải quyết những nhiệm vụ học tập cùng loại. Thông thường, việc khái quát hóa diễn ra theo các hình thức sau:

- Khái quát những dấu hiệu bản chất chung.

- Khái quát các mối liên hệ, quan hệ chung tất yếu của sự vật hiện tượng để rút ra các quy luật, định lý.

- Khái quát tài liệu học tập để xây dựng dàn ý, đề cương, viết tóm tắt và viết thu hoạch về tài liệu đó.

2.2.2.6.Kỹ năng hệ thống hóa.

Hệ thống hóa là thao tác tư duy, đó là một kỹ năng trí tuệ giúp con người chiếm lĩnh được đối tượng theo một hệ thống nhất định. Kỹ năng hoạt động trí tuệ hệ thông hóa được biểu hiện ở sự sắp xếp các đối tượng riêng lẻ theo một trật tự nào đó. Hệ thống hóa trong học tập cũng diễn ra trong sự gắn bó với khái quát hóa và và các thao tác trí tuệ khác. Để tiến hành hệ thông hóa, sinh viên phải biết phát hiện ra những dấu hiệu chung, những mối quan hệ, sự phụ thuộc lẫn nhau của sự vật, hiện tượng. Quá trình hệ thống hóa thường được diễn ra dưới các hình thức sau:

- Phân chia đối tượng trong tài liệu thành các nhóm, các lớp theo dấu hiệu chung nhất định.

- Sắp xếp các tài liệu khác nhau theo một hệ thống có quan hệ nhất định. Kỹ năng hệ thống hóa và khái quát hóa của sinh viên được hình thành và phát triển trong quá trình giải các bài tập vật lý đòi hỏi phải lập biểu đồ, sơ đồ, dàn ý, đề cương...

2.2.2.7.Kỹ năng ghi chép tài liệu đã nghiên cứu.

Ghi chép trong hoạt động tự học có vai trò rất lớn nhằm hỗ trợ cho trí nhớ, phát huy năng lực chú ý. Ghi chép cũng là một phương thức tích lũy tài liệu trong quá trình học tập, nghiên cứu. Trong tự học, ghi chép là một hình thức bài tập để sinh viên khái quát hóa hệ thống hóa tri

Một phần của tài liệu một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động tự học của sinh viên khoa lý trong quá trình giảng dạy môn điện đại cương (Trang 47 - 57)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(93 trang)