K ết quả đạt được

Một phần của tài liệu xã hội hóa hoạt động giáo dục tại tỉnh ninh thuận thực trạng và giải pháp (Trang 40 - 57)

GIÁO D ỤC Ở TỈNH NINH THUẬN 2.1. Vài nét v ề đặc điểm tỉnh Ninh Thuận

2.3. Th ực trạng công tác XHHHĐGD ở Ninh Thuận trong những năm qua 1.Tiến trình triển khai thực hiện XHHHĐGD ở Ninh Thuận

2.3.2. K ết quả đạt được

a) Tạo được sự chuyển biến cơ bản trong nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo, về ý nghĩa XHHHĐGD - Mọi người đều có quyền lợi và trách nhiệm với GD-ĐT, xây dựng được xã hội học tập, học suốt đời.

Kết quả trên được thể hiện ở các nét lớn sau đây:

❖ Quy mô giáo dục - đào tạo

Quy mô giáo dục phổ thông không ngừng phát triển, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân, của các dân tộc trong toàn tỉnh. So với năm học 1996 - 1997 , tỷ lệ tăng ở các bậc học, cấp học ương năm học 2000 -2001 như sau:

+ Mầm non và phổ thông tăng 25,76% ( 2812 học sinh), tỷ lệ tăng bình quân hàng năm 6,25% trong đó mầm non tăng 6,8%, tiểu học tăng 3,04%, trung học cơ sở tăng 5,77%, trung học phổ thông tăng 15,75%. [16;1]

+ Học sinh, sinh viên Trang tâm kỹ thuật -tổng hợp - hướng nghiệp dạy nghề, trường Cao đẳng sư phạm tăng 4,7%. [16;1]

+ Học sinh, sinh viên ở Trung tâm giáo dục thường xuyên, trường Chính trị (tổ chức các lớp học tại chức, chuyên tu) tăng 2,4% [16; 1]

- Tháng 5/2000 Ninh Thuận đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về xoa mùa chữ (XMC) và phổ cập giáo dục tiểu học ( PCGDTH) (có 49/54 xã phường được công nhận đạt chuẩn, so với năm học 1996 -1997 chỉ có 22 xã phường và 1 thị xã Phan Rang-Tháp Chàm đạt chuẩn quốc gia). Đến nay tỷ lệ xã phường đạt chuẩn quốc gia về PCGDTH và XMC là 100%, có 96% dân số trong độ tuổi từ 15 -35 biết chữ, bình quân cứ 3,79 người dân có 1 người đi học. [16; 1]

- Chương trình phổ cập Trung học học cơ sở (PCTHCS) được triển khai khẩn trương , kết quả mở lớp tính đến ngày 30/7/2002 ở các địa bàn trong toàn tỉnh như sau:

- Ngành GD-ĐT đã có nhiều giải pháp có hiệu quả thiết thực đối vôi việc phát triển giáo dục vùng dân tộc, miền núi: đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường lớp kiên cố 100%, mỗi xã đều có trường tiểu học, liên xã có trường THCS, phát triển hệ thống trường dân tộc nội trú ( năm 1996 -1997 toàn tỉnh có 2 trường , nay tăng lên 4 trường thu nhận trên 1000 học sinh), chỉ đạo dạy chữ Chăm cho học sinh dân tộc ( năm 1992 có 6 trường dạy chữ Chăm, nay có 23 trường). Tỉnh và Bộ GD-ĐT đang tiến hành nghiên cứu chữ viết Raglay và biên soạn sách để đưa vào giảng dạy trong nhà trường.

[16; 6]

- Mạng lưới trường lớp đã được qui hoạch và xây dựng khá tập trung, xã phường nào cũng có trường tiểu học, trung học cơ sở , huyện nào cũng có từ 1 đến 2 trường trung học phổ thông, phổ thông cấp 2, 3. Riêng thị xã Phan Rang- Tháp Chàm có 5 trường trung học phổ thông. Tuy đặc điểm, địa hình tỉnh còn có chủ trương bố trí lớp trung học cơ sở trong trường tiểu học, trong trường trung học phổ thông, trường tiểu học quản lớp mẫu giáo, lớp trung học cơ sở ... để đảm bảo nhu cầu học tập của học sinh.

Tuy nhiên ở lĩnh vực này còn một số mặt hạn chế:

+ Chưa có điều kiện phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở dẫn tới học sinh trung học phổ thông tăng nhanh ( 15,7%/năm).

+ Công tác xóa mù chữ ở một số xã vùng núi, vùng biển chưa được quan tâm đúng mức, tỷ lệ người tái mù có chiều hướng gia tăng.

+ Huy động học viên ra lớp phổ cập trung học cơ sở còn chậm ( mới đạt 29,3%

kế hoạch).

+ Hệ thống mạng lưới dạy nghề, hướng nghiệp của tỉnh còn hạn chế, các huyện chưa có cơ sở dạy nghề.

+ Việc chỉ đạo xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia thực hiện quá chậm (toàn tỉnh chỉ mới có 1 trường tiểu học đang chuẩn bị kiểm tra để Bộ Giáo dục - Đào tạo công nhận đạt chuẩn quốc gia).

❖ Từng bước đa dạng hóa trường lớp, loại hình đào tạo

- Xuất phát từ đặc điểm kinh tế- xã hội của tỉnh, việc thực hiện đa dạng hóa loại hình trường lớp ngoài công lập được triển khai hết sức thận trọng, với những bước đi thích hợp trước hết từ Thị xã Phan Rang-Tháp Chàm. Vào năm 1992 (mới tái lập tỉnh) toàn tỉnh chỉ có 6, trường Mẫu giáo dân lập, tư thục đến đầu năm 2000 -2001 đã có 65 cơ sở ngoài công lập (tập trung nhiều ở ngành học mầm non) chiếm 21,53% so với cơ sở trường học trong toàn tỉnh.

- Thể hiện sự đa dạng hóa loại hình đào tạo phong phú, mang lại hiệu quả cao tập trung ỏ Trung tâm giáo dục thường xuyên (TTGDTX) của tỉnh. Năm năm qua, trung tâm thu hút ngày càng nhiều học viên bổ túc văn hóa (năm học 1996 -1997 có 1285 học sinh, học viên với 24 lớp đến năm học 2001 - 2002 có 2102 học sinh, học viên với 43 lớp). Mặt khác, TTGDTX còn mở 12 lớp tin học, 7 lớp Anh văn chứng chỉ A, B theo đơn đặt hàng của các sở, Ngành trong tỉnh. Các lớp đại học, trung cấp tại chức, từ xa được mở đúng theo kế hoạch. Loại hình đào tạo từ xa được triển khai quanh năm, trước mắt TTGDTX liên kết với Trung tâm đào tạo từ xa Huế tập trung vào việc chuẩn hóa trình độ cho giáo viên tiểu học, THCS trong toàn tỉnh với 1236 giáo viên theo học 9 ngành.

❖ Chất lượng giáo dục toàn diện và hiệu quả giáo dục đào tạo ngày càng được nâng cao

- Trong 5 năm qua, mặc dầu điều kiện đầu tư cho GD-ĐT còn hạn chế, nhưng ngành GD-DT đã có nhiều cố gắng trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục đào tạo.

Tỷ lệ học sinh bỏ học hàng năm giảm 0,18%, tỷ lệ lên lớp ở các bậc học, cáp học đạt bình quân 95%. Tỷ lệ tốt nghiệp của bậc tiểu học, THCS năm sau cao hơn năm trước.

Hiệu quả đào tạo tương đối khá tiểu học đạt 67,57%, THCS đạt 64,23%, THPT đạt 54,13% [ 16; 4]

- Số học sinh đạt giải học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia tương đôi ổn định, kỳ thi Olympic hàng năm đều có học sinh tham gia và đạt huy chương, số học sinh đã

vào trường đại học, cao đẳng trên toàn quốc và trường Cao đẳng sư phạm tỉnh đều tăng hàng năm (năm 1996 : 738 em, năm 2001 : 963 em). [16;5]

Các trường đã chú ý giáo dục toàn diện , giáo dục truyền thông, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, giáo viên và học sinh. về phong trào mũi nhọn cũng được quan tâm đúng mức như: tổ chức bồi dưỡng đội ngũ học sinh giỏi, duy trì các lớp năng khiếu ở trường THPT Chu Văn An. Chính từ việc đầu tư cho hoạt động mũi nhọn này tỉnh luôn có đội tuyển dự thi cấp quốc gia hàng năm, đồng thời hưởng ứng các cuộc thi do Bộ GD-ĐT phối hợp Đài VTV2 truyền hình Việt Nam, Trung ương Đoàn tổ chức -Đặc biệt trong cuộe thi "Đường lên đỉnh Olympia" ( năm 2001 -2002) thí sinh Ninh Thuận đã đạt giải nhất tuần với mức điểm phá kỷ lục 320 điểm.

-Vấn đề dạy nghề (tập trung tại 2 đơn vị là Trung tâm Dịch vụ việc làm và Trang tâm Kỹ thuật tổng hợp - Hướng nghiệp - Dạy nghề đặt tại thị xã Phan Rang-Tháp Chàm đã từng bước được quan tâm cải tạo mặt bằng, bổ sung trang thiết bị, đổi mới phương thức giảng dạy, điều chỉnh giáo trình... nên ngày càng thu hút học sinh, học viên tham gia học nghề ngắn hạn và dài hạn ở các lĩnh vực: May dân dụng, may công nghiệp, sửa xe gắn máy, điện công nghiệp, điện cơ khí, điện tử, đánh máy chữ, vi tính, ngoại ngữ... với tỷ lệ tốt nghiệp ngày càng cao.

- Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và hiệu quả GD-ĐT thì việc tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên là vấn đề tối cần thiết, ngành GD-ĐT đã xem đây là nhân tố quyết định chất lượng. GD-ĐT nên trong thời gian qua - Đặc biệt

là trong 5 năm thực hiện Nghị quyết TW 2 đội ngũ nhà giáo không ngừng phát triển về mọi mặt. Tính đến năm học 2000 -2001, tổng số giáo viên đứng lớp toàn ngành là 5021 người so với năm học 1996 - 1997 tăng 55,76% (bình quân mỗi năm tăng 11,15%). Tỷ lệ giáo viên/ lớp so với quy định của Bộ GD-ĐT đã gần đạt : tiểu học 1,12, THCS 1,7 và THPT 1,57. Tỷ lệ đạt chuẩn của giáo viên hiện đã cao hơn tỷ lệ chung của toàn quốc : mầm non 69%, tiểu học 88%, THCS 92,8%, THPT 100%.

[16;4]

❖Đã huy động nhiều nguồn lực hỗ trự cho hoạt động giáo dục - đào tạo

- Là một trong 6 tỉnh nghèo nhất nước, song trong 5 năm qua kết hợp nhiều nguồn vốn ngành GD-ĐT và các địa phương đã cố gắng tăng cường đầu tư xây dựng, tu sửa trường lớp, mua sắm trang thiết bị dạy học, hỗ trợ giáo viên học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ... Tính đến đầu năm học 2000 - 2001 toàn tĩnh có 1893 phòng học từ cấp 4 trở lên, so với năm học 1996 -1997 tăng 438 phòng. Tổng kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị năm sau đều cao hơn năm trước ( năm học 1996 -1997 là 1250 triệu, năm 2000 - 2001 đến 5386 triệu).

- Ngân sách chi cho GD-ĐT hàng năm cũng đều tăng (từ 33,564 triệu năm 1996 tăng lên 85.492 triệu năm 2001) thường đạt hoặc vượt chỉ tiêu được giao từng năm ( do mỗi năm tỉnh đều có bổ sung). Ngoài nguồn ngân sách của Trung ương, của tỉnh và nguồn đóng góp từ học phí, quỹ xây dựng trường của cha mẹ học sinh, một số huyện, thị (như Thị xã PR-TC, huyện Ninh Phước, Ninh Hải) còn trích thêm nguồn ngân sách

địa phương, huy động thêm nguồn lực của nhân dân để đầu tư cho hoạt động giáo dục, xây dựng phòng học.

❖ Thực hiện dân chủ hóa

Từ khi có Nghị quyết TW2 ra đời và nhất là từ khi có Chỉ thị 30/CT/TW ngày 15/12/1998 của Bộ chính trị về : "Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở", Nghị định 29/CP của Chính phủ về triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và Quyết định số 04/2000/ QĐ-BGD-ĐT ngày 1/3/2000 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường, toàn bộ trường học trong tình đều mở Hội nghị cán bộ công chức theo tinh thần Nghị định 71/CP của Chính phủ. Qua Hội nghị, những chủ trương, biện pháp về các mặt giáo dục, phong trào mũi nhọn đã được thống nhất từ các khối, tổ bộ môn, tránh tình trạng áp đặt nặng nề; các chế độ chính sách của giáo viên được chính quyền và công đoàn cam kết thực hiện tốt, vấn đề tài chính được công khai định kỳ, ... Công đoàn đã có nhiều nổ lực trong việc chỉ đạo Ban Thanh tra nhân dân trường học hoạt động khá tốt, ngày càng giúp cán bộ, giáo viên, công nhân viên cần biết, cần bàn, cầm kiểm tra những gì, làm giảm nhiều tình trạng cả nể không đóng góp ý kiến xây dựng nhau, tình trạng bằng mặt mà không bằng lòng trong tập thể sư phạm.

Đối với học sinh, các trường đã có nhiều cố gắng cải tiến phương pháp giảng dạy, giáo dục phù hợp đối tượng. Chú ý giáo dục các em tinh thần tự giác, tự lực trong rèn luyện, học tập để có thể vươn lên, tự thân lập nghiệp trong tương lai. Giúp các em có nhận thức đúng đắn về vai trò làm chủ của mình trong sinh hoạt, học tập, phát huy xây dựng trường, lớp.

- Vấn đề kết hợp 3 môi trường giáo dục, huy động các lực lượng tham gia hoạt động giáo dục Ngành GD-ĐT nói chung và nhà trường nói riêng định kỳ có báo cáo hoạt động giáo dục trên địa bàn cho hội đồng giáo dục đồng cấp, hoặc chính quyền địa phương, báo cáo những vấn đề bức xúc trong phiên họp giao ban hàng tháng với ban Tuyên giáo , qua đó tạo điều kiện cho chính quyền địa phương, các lực lượng trong xã hội kịp thời nắm bắt tình hình giáo dục đồng thời có kế hoạch giải quyết đúng lúc những yêu cầu mà nhà trường đề xuất, thông tin liên hệ với gia đình học sinh khi có vấn đề cần phối hợp giải quyết... Mọi khoản thu, chi đều công khai trước Đại hội CMHS, có báo cáo cụ thể với chính quyền.

Một số việc làm trên của Lãnh đạo ngành GD-ĐT, các trường đã củng cố được niềm tin trong đội ngũ giáo viên, trong cha mẹ học sinh cùng chính quyền địa phương nơi trường đóng.

Tuy vậy, vấn đề dân chủ hóa giáo dục ở Ninh Thuận vẫn còn khập khiễng mang tính hình thức chưa thật sự đi vào chiều sâu, chưa tạo sức bật mới trong tập thể nhà giáo để mọi người thật sự phấn khởi nổ lực phấn đâu, rèn luyện phát huy hết khả năng, tính sáng tạo của mình. Bởi lẽ nơi này nơi nọ vẫn còn tình trạng lanh đạo lợi dụng chức quyền chèn ép giáo viên, thực thi chế độ chính sách cho giáo viên không rõ ràng, đầy đủ, kịp thời. Chỉ đạo huy động các nguồn đóng góp từ CMHS, sử dụng các nguồn thu còn tùy tiện, sai phạm nguyên tắc tài chính, làm xói mòn niềm tin trong nhân dân không ít. Điều đáng nói với ngành GD-ĐT nhiều năm qua tình ừạng đơn thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp vẫn tiếp tục xảy ra, hàng năm sở GD-ĐT, các Phòng GD- ĐT đều tiếp nhận hàng chục lá đơn từ các trường ( cụ thể năm học 2001 -2002) đã có 31 đơn thư khiếu nại, tố cáo gởi về sở GD-ĐT, các Phòng GD-ĐT tiếp nhận 37 đơn).

Điều này cho thấy dân chủ hóa trường học cần phải được chú trọng.

b) Huy động các lực lương tham gia các hoạt động giáo dục

❖Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Từ năm 1995 đã tổ chức vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sông mới ở khu dân cư" xem đây là phương thức để Mặt trận vận động các tầng lớp nhân dân tăng cường sự đoàn kết nhất trí, tán thành và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách

của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các nhiệm vụ phát triển kinh tế-'xã hội của địa phương và phát huy nội lực xây dựng cuộc sông mới trên từng địa bàn, khu dân cư.

Nhiều năm qua Mặt trận các cấp luôn duy trì phát động phong trào toàn dân đưa trẻ đến trường đúng độ tuổi, vận động các đối tượng ra lớp XMC, PCGD, vận động nhân dân đóng góp tiền của và công sức xây dựng, tu sửa, nâng cáp trường lớp... Mặt khác, còn vận động mạnh thường quân mở trường tư thục (tập trung ỏ bậc mầm non), cán bộ công chức và nhân dân đóng góp quỹ khuyên học ( khoảng 500 triệu) , phát triển quỹ dòng tộc ở thôn xóm, thành lập Hội thân nhân kiều bào góp phần đa dạng hóa các nguồn đầu tư hỗ trợ cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo.

❖Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (Đoàn TNCS HCM)

Thanh niên Ninh Thuận có khoảng 150.000 chiếm gần 30% dân số. Đây là lực lượng trẻ, có trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, rất nhạy cảm với cái mới. Đoàn TNCSHCM đã có những đóng góp đáng kể qua việc trực tiếp giảng dạy, phục vụ, học tập ở các trường, đảm nhận công tác Đội để giáo dục, dìu dắt thiếu niên, nhi đồng đang học ở các trường tiểu học, trung học cơ sở, là thành viên tích cực trong Đội thanh niên tình nguyện thực hiện ánh sáng văn hóa hè hàng năm ở các vùng sâu, xa, khó khăn, là lực lượng xung kích trong công tác phòng chông AIDS, ma tuy, mại dâm, tệ nạn xã hội, tội phạm ở từng trường, tòng địa bàn, khu dân cư.

Hưởng ứng "Năm xã hội tình nguyện vì trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn"

của Thủ tướng Chính phủ, Tỉnh Đoàn đã có kế hoạch chỉ đạo cho các cơ sở Đoàn đỡ đầu, chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành hàng chục em có hoàn cảnh khó khăn ( Huyện đoàn Ninh Hải cam kết đỡ đầu 20 em, Đoàn trường CĐSP đỡ đầu 6 em...) . Các cơ sở Đoàn còn thường xuyên vận động thanh niên đăng ký học bổ túc văn hóa, học nghề, tham gia giảng dạy các lớp XMC, PCGD góp phần nâng cao mặt bằng dân trí địa phương.

Từ năm 1992 Tỉnh Đoàn Ninh Thuận đã chủ động xây dựng chương trình bảo trợ tài năng trẻ, qua 10 năm hoạt động đã vận động được số tiền khoảng 500 triệu tại địa phương, đồng thời tranh thủ các quỹ học bổng do TW Đoàn quản lý như: Học bổng Nguyễn Thái Bình (Báo Thanh Niên), Quỹ vượt khó hiếu học (Báo Tuổi Trẻ),

các giải thưởng Lý Tự Trọng, Kim Đồng, Doremon... ( gần 150 triệu) để giúp đỡ, hỗ trợ 1080 học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, biết vượt khó học giỏi. Nhiều sinh viên trong số đó hiện nay đã trở thành bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, cấn bộ quản lý đang phục vụ tại quê hương Ninh Thuận.

❖ Hội liên hiệp Phụ nữ tình

Phụ nữ Ninh Thuận chiếm 50,6% dân số, trong sản xuất nông-lâm- ngư nghiệp lao động nữ chiếm gần 75% , là lực lượng khá đông đảo có những đóng góp đáng kể cho việc phát triển kinh tế xã hội địa phương và việc xây dựng gia đình văn hóa. Dưới tác động của Hội Phụ nữ các cấp, nhiều năm qua nữ giới toàn tỉnh đã tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua : 'Thụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc", "Giỏi việc nước đảm việc nhà", 'Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước"... Được sự giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước, các ngành chủ quản qua chính sách khuyến nông, khuyên ngư, câu lạc bộ IPM, giải quyết vay vốn xoa đói giảm nghèo, vốn giải quyết việc làm ... nhiều chị em được tiếp cận với khoa học công nghệ, áp dụng trong thực tiễn sản xuất đạt hiệu quả cao, góp phần không nhỏ trong việc xây dựng nông thôn mới ở nhiều địa phương.

Đặc biệt các chị ở vùng khó khăn, miền núi được quan tâm giúp đỡ nhiều từ phong trào 44 Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo" đến chương trình " Hỗ trợ tạo việc làm, tăng thu nhập cho phụ nữ", các cấp Hội đã mở 22 lớp dạy nghề cho 400 lao động nữ, giới thiệu cho hơn 2000 lao động có việc làm ổn định.

Được học tập để nâng cao trình độ, mở rộng tầm nhìn, có việc làm ổn định cuộc sống, nhiều chị có điều kiện chăm lo, đầu tư con cái học hành thành đạt, tích cực phục vụ công tác xã hội ở địa phương: tuyên truyền vận động phòng chống AIDS, tệ nạn xã hội, phòng ngừa dịch bệnh, kế hoạch hóa gia đình, giáo dục sức khỏe sinh sản cho nữ học sinh...

Trong công tác XMC, PCGD, năm năm qua Hội phụ nữ các cấp đã phối hợp với ngành GD-ĐT, Bộ đội Biên phòng vận động trẻ em bỏ học đến trường, vận động trẻ em và phụ nữ trong diện tuổi ra lớp XMC được 212 lớp có 5512 phụ nữ tham gia, nhiều cán bộ Hội đã trực tiếp giảng dạy 5 năm liền như chị Nguyễn Thị Ngọc Ánh (xã Đông Hải), chị Nguyễn Thị Yếm ( phường Thanh Sơn), chị Văn Thị Thanh Xxã Vĩnh

Một phần của tài liệu xã hội hóa hoạt động giáo dục tại tỉnh ninh thuận thực trạng và giải pháp (Trang 40 - 57)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(107 trang)