CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỊA LÍ NÔNG NGHIỆP
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển và phân bố nông nghiệp
1.1.2.1. Vị trí địa lí kết hợp cùng khí hậu, thổ nhưỡng qui định sự có mặt của các hoạt động nông nghiệp
Vị trí địa lí của lãnh thổ với đất liền, với biển, với các quốc gia trong khu vực và nằm trong một đới tự nhiên nhất định sẽ có ảnh hưởng tới phương hướng sản xuất, tới việc trao đổi và phân công lao động trong nông nghiệp.
Thí dụ, vị trí của Việt Nam nằm ở khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa đã qui định nền nông nghiệp nước ta là một nền nông nghiệp nhiệt đới với các sản phẩm đặc trưng là lúa gạo, cà phê, cao su, điều,... Các nông sản trao đổi trên thị trường thế giới tất nhiên chủ yếu là sản phẩm của nền nông nghiệp nhiệt đới.
1.1.2.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Từ những đặc điểm đặc thù của sản xuất nông nghiệp, có thể thấy rằng sự phát triển và phân bố của ngành này tuỳ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Sự phân đới nông nghiệp trên thế giới phụ thuộc vào sự phân đới tự nhiên. Sự tồn tại của các nền nông nghiệp gắn liền với các đặc trưng của từng đới tự nhiên. Tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp, trong việc sử dụng lao động và các nguồn lực khác, trong việc trao đổi sản phẩm cũng chịu sự tác động của điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Tính bấp bênh, không ổn định của nông nghiệp phần nhiều là do tai biến thiên nhiên và thời tiết khắc nghiệt. Mỗi loại cây trồng, vật nuôi chỉ có thể sinh trưởng và phát triển trong những điều kiện tự nhiên nhất định.
Rõ ràng, các nhân tố tự nhiên có vai trò đặc biệt quan trọng, trong đó nổi lên hàng đầu là đất, nước và khí hậu.
- Đất đai
Đất trồng là tư liệu sản xuất chủ yếu, là cơ sở để tiến hành trồng trọt và chăn nuôi. Không thể có sản xuất nông nghiệp nếu không có đất đai. Quĩ đất, cơ cấu sử dụng đất, các loại đất, độ phì của đất có ảnh hưởng rất lớn đến qui mô và phương hướng sản xuất, cơ cấu và sự phân bố cây trồng, vật nuôi, mức độ thâm canh và năng suất cây trồng. Đất đai không chỉ là môi trường sống, mà còn là nơi cung cấp
Phát triển nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng trong thời kì công nghiệp hóa
các chất dinh dưỡng cho cây trồng (các chất khoáng trong đất như N, P, K, Ca, Mg... và các nguyên tố vi lượng).
Những vùng đất màu mỡ, phì nhiêu trên thế giới đều là những vùng nông nghiệp trù phú. Chẳng hạn những vùng đất đen có tầng mùn dày, độ phì cao ở những vùng ôn đới của châu Âu, Bắc Mỹ trở thành vựa lúa mỳ lớn trên thế giới.
Những kho lúa gạo của nhân loại thuộc về các vùng phù sa châu thổ sông Mê Công, Trường Giang, sông Hằng, sông Hồng của châu Á gió mùa.
Kinh nghiệm dân gian đã chỉ rõ vai trò của đất đối với việc phát triển và phân bố nông nghiệp như đất nào cây ấy, tấc đất tấc vàng.
Tài nguyên đất nông nghiệp rất hạn chế, chỉ chiếm 12% diện tích tự nhiên của toàn thế giới. Ở nước ta tương ứng là 28,5% với 9,3 triệu ha. Xu hướng bình quân diện tích đất nông nghiệp trên đầu người ngày một giảm do gia tăng dân số, do xói mòn, rửa trôi, do hoang mạc hoá và chuyển đổi mục đích sử dụng sang đất công nghiệp, đất đô thị và đất cho cơ sở hạ tầng. Vì vậy con người cần phải sử dụng hợp lí diện tích đất nông nghiệp hiện có, duy trì và nâng cao độ phì cho đất.
- Khí hậu
Khí hậu với các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng, độ ẩm, chế độ gió và cả những bất thường của thời tiết như bão, lũ lụt, hạn hán, gió nóng… có ảnh hưởng rất lớn tới việc xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ, khả năng xen canh, tăng vụ và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Tính mùa của khí hậu quy định tính mùa trong sản xuất và cả trong tiêu thụ sản phẩm.
Mỗi loại cây trồng, vật nuôi chỉ thích hợp với những điều kiện khí hậu nhất định (nghĩa là trong điều kiện đó cây trồng, vật nuôi mới có thể phát triển bình thường). Vượt quá giới hạn cho phép, chúng sẽ chậm phát triển, thậm chí bị chết.
Ví dụ, cây lúa ưa khí hậu nóng, ẩm, nhiệt độ trung bình tháng từ 20°C đến 30°C.
Nhiệt độ thấp nhất vào đầu thời kỳ sinh trưởng không xuống dưới 12°C. Trong quá trình sinh trưởng, cây lúa cần có nước ngập chân.
Phát triển nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng trong thời kì công nghiệp hóa
Những vùng dồi dào về nhiệt, ẩm và lượng mưa, về thời gian chiếu sáng và cường độ bức xạ có thể cho phép trồng nhiều vụ trong năm với cơ cấu cây trồng, vật nuôi phong phú, đa dạng, có khả năng xen canh gối vụ, chẳng hạn như vùng nhiệt đới. Còn như vùng ôn đới, với một mùa đông tuyết phủ nên có ít vụ trong năm. Trên thế giới, sự hình thành 5 đới trồng trọt chính (đới nhiệt đới, đới cận nhiệt, đới ôn hoà có mùa hè dài và nóng, đới ôn hoà có mùa hè mát và ẩm và đới cận cực) phụ thuộc rõ nét vào sự phân đới khí hậu.
- Nguồn nước
Muốn duy trì hoạt động nông nghiệp cần phải có đầy đủ nguồn nước ngọt cho cây trồng, nước uống, nước tắm rửa cho gia súc. Nước đối với sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết như ông cha ta đã khẳng định “Nhất nước, nhì phân”.
Nước có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Những nơi có nguồn cung cấp nước dồi dào, thường xuyên đều là những vùng nông nghiệp trù phù, chẳng hạn như vùng hạ lưu các con sông lớn như Mêkông, Hoàng Hà… Ngược lại, nông nghiệp không thể phát triển được ở những nơi khan hiếm nước như các vùng hoang mạc, bán hoang mạc…
Do ảnh hưởng của khí hậu và địa hình, nên nguồn nước trên thế giới phân bố không đều và thay đổi theo mùa. Ở nước ta, mùa mưa lượng nước tập trung quá lớn, làm dư thừa nước, còn mùa khô, ngược lại rất khan hiếm nước. Điều đó gây ra nhiều khó khăn cho sản xuất nông nghiệp. Để khắc phục tình trạng thiếu nước trong mùa khô và quá dư thừa nước trong mùa mưa, người ta đã xây dựng các công trình thuỷ lợi, hồ chứa nước… để phục vụ tưới tiêu một cách chủ động. Sự suy giảm nguồn nước ngọt cạn kiệt là một nguy cơ đe dọa sự tồn tại và phát triển nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Vì vậy, chúng ta cần phải sử dụng hợp lí, tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước.
- Sinh vật
Sinh vật trong tự nhiên xưa kia là cơ sở để thuần dưỡng, tạo nên các giống cây trồng, vật nuôi. Sự đa dạng về thảm thực vật và hệ động vật, hay nói cách khác về
Phát triển nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng trong thời kì công nghiệp hóa
loài cây, con là tiền đề hình thành và phát triển các giống vật nuôi, cây trồng và tạo khả năng chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên và sinh thái. Trên thế giới, sản lượng lương thực (lúa, ngô, khoai...) và các cây công nghiệp quan trọng (cao su, cà phê, ca cao, bông, đay, dầu cọ, lạc…) tập trung ở vùng nhiệt đới vì tại đây đã có tới 6 trên 10 trung tâm phát sinh cây trồng.
Các diện tích đồng cỏ, bãi chăn thả và diện tích mặt nước tự nhiên là cơ sở thức ăn tự nhiên để phát triển ngành chăn nuôi. Ngày nay, mặc dù ngành chăn nuôi được đẩy mạnh nhờ ứng dụng phương pháp chăn nuôi công nghiệp dựa trên nguồn thức ăn được chế biến theo phương pháp công nghiệp, nhưng nguồn thức ăn tự nhiên vẫn còn vai trò quan trọng.
Có thể nói, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Đất, khí hậu, nước với tư cách là tài nguyên nông nghiệp quyết định khả năng (tự nhiên) nuôi trồng các loại cây, con cụ thể trong từng lãnh thổ và khả năng áp dụng các quy trình kĩ thuật để sản xuất ra sản phẩm.
1.1.2.3. Kinh tế - xã hội a. Dân cư, nguồn lao động
Dân cư và lao động ảnh hưởng tới hoạt động nông nghiệp dưới hai góc độ: là lực lượng sản xuất trực tiếp và là nguồn tiêu thụ các nông sản.
+ Dưới góc độ là lực lượng sản xuất trực tiếp để tạo ra các sản phẩm nông nghiệp, nguồn lao động được coi là nhân tố quan trọng để phát triển theo chiều rộng (mở rộng diện tích, khai hoang…) và theo chiều sâu (thâm canh, tăng vụ…). Các cây trồng, vật nuôi đòi hỏi nhiều công chăm sóc thường được phân bố ở các vùng đông dân, nhiều lao động. Không phải ngẫu nhiên, vùng lúa gạo được thâm canh cao nhất của nước ta lại xuất hiện ở đồng bằng sông Hồng. Các cây trồng, vật nuôi tốn ít công chăm sóc hơn có thể phân bố ở các vùng thưa dân.
Nguồn lao động không chỉ được xem xét về mặt số lượng, mà còn cả về mặt chất lượng, như trình độ học vấn, tỷ lệ lao động được đào tạo nghề nghiệp, tình
Phát triển nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng trong thời kì công nghiệp hóa
trạng thể lực của người lao động... Nếu nguồn lao động đông và tăng nhanh, trình độ học vấn và tay nghề thấp, thiếu việc làm sẽ trở thành gánh nặng cho nông nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung.
+ Dưới góc độ là nguồn tiêu thụ, cần quan tâm đến truyền thống, tập quán ăn uống, quy mô dân số với khả năng sản xuất lương thực, thực phẩm.
Chăn nuôi lợn ở các nước Nam Á và Trung Đông không phát triển, thậm chí không có như ở Bănglađet và Pakixtan do các quốc gia Hồi giáo không ăn thịt lợn.
Ở Ấn Độ, một nước đa dân tộc và tôn giáo, ngành chăn nuôi lợn và bò cũng bị ảnh hưởng bởi tập quán kiêng ăn thịt bò của đạo Hinđu và không ăn thịt lợn của tín đồ Hồi giáo.
Ở các nước đang phát triển thuộc khu vực Á- Phi, dân số đông và tăng nhanh.
Trong cơ cấu nông nghiệp luôn có sự mất cân đối. Tỷ trọng chăn nuôi rất nhỏ bé so với trồng trọt, vì lương thực sản xuất ra chủ yếu để dành cho người.
b. Khoa học – công nghệ
Khoa học - công nghệ đã thực sự trở thành đòn bẩy thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển nông nghiệp. Nhờ nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, con người hạn chế được những ảnh hưởng của tự nhiên, chủ động hơn trong hoạt động nông nghiệp, tạo ra nhiều giống cây, con mới cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao, tạo điều kiện hình thành các vùng chuyên canh, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH.
Các biện pháp kỹ thuật như điện khí hoá (sử dụng điện trong nông nghiệp và nông thôn), cơ giới hoá (sử dụng máy móc trong các khâu làm đất, chăm sóc và thu hoạch), thủy lợi hoá (xây dựng hệ thống kênh tưới tiêu hoặc áp dụng tưới tiêu theo khoa học), hoá học hoá (sử dụng rộng rãi phân hoá học, thuốc trừ sâu, diệt cỏ, các chất kích thích cây trồng, vật nuôi), sinh học hoá (áp dụng công nghệ sinh học như lai giống, biến đổi gien, cấy mô…) nếu được áp dụng rộng rãi thì năng suất trên một đơn vị diện tích và của một người lao động sẽ thực sự được nâng cao.
Phát triển nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng trong thời kì công nghiệp hóa
Trên thế giới có sự chênh lệch rất lớn về năng suất lao động. Ở các nước phát triển, bình quân một lao động nông nghiệp có thể sản xuất từ 8 đến 14 tấn lương thực, từ 1,5 đến 2,0 tấn thịt các loại, đủ nuôi sống cho 30 đến 80 người, trong khi đó ở các nước đang phát triển tương ứng chỉ là 1 tấn lương thực, 50 - 100 kg thịt, đủ cho nhu cầu 2 - 4 người. Rõ ràng việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp ở các nước đang phát triển còn rất hạn chế trong khi nông nghiệp là ngành kinh tế chính của các nước này. Việt Nam cũng là một nước đang phát triển và nông nghiệp là một trong những lĩnh vực đáng tự hào của Việt Nam. Việt Nam trở thành một nước mạnh về xuất khẩu nhiều lĩnh vực trong đó có đóng góp của nông nghiệp. Bên cạnh các yếu tố như đất, sự sáng tạo, cần cù của người nông dân thì yếu tố mới về giống, công nghệ, chế biến và bảo quản hết sức quan trọng trong việc phát triển ngành nông nghiệp... Việt Nam có điều kiện để phát triển nông nghiệp vì thế phải đặt mục tiêu trong giai đoạn 10 năm tới không chỉ là một nước mạnh mà còn phải phát triển bền vững về nông nghiệp.
Thực tế nhiều năm qua ngành nông nghiệp cũng khẳng định vai trò của khoa học công nghệ trong việc đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền nông nghiệp, đóng góp quan trọng vào việc đạt được những thành tựu của ngành trong thời gian vừa qua. Nhiều giống cây trồng vật nuôi mới đã được tạo ra, nhiều quy trình công nghệ được phát triển và ứng dụng trong sản xuất góp phần nâng cao năng suất và sản lượng nông sản ở các vùng sinh thái khác nhau. Đáng chú ý là chất lượng nguyên liệu và nông sản đã từng bước được cải thiện, nâng cao tính cạnh tranh của nông sản xuất xứ Việt Nam tại thị trường nội địa và quốc tế.
c. Cơ sở hạ tầng và Cơ sở vật chất kĩ thuật
Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã tạo ra bước chuyển biến mới trong ngành nông nghiệp, đã và đang đưa nông nghiệp trở thành ngành sản xuất tiên tiến - một dạng sản xuất kiểu công nghiệp. Nội dung chủ yếu của cuộc cách mạng này là đưa nông nghiệp lên giai đoạn đại cơ khí, đẩy mạnh các quá trình liên kết, nâng cao vai trò của khoa học và biến nó thành lực lượng sản xuất trực tiếp trong nông
Phát triển nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng trong thời kì công nghiệp hóa
nghiệp. Áp dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật hoàn thiện giúp con người hạn chế những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, chủ động hơn trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp, nâng cao năng suất và sản lượng nông nghiệp.
d. Thị trường
Trong nền kinh tế hàng hóa, thị trường tiêu thụ là yếu tố cơ bản tác động đến cơ cấu, quy mô và giá trị của sản phẩm nông nghiệp, có tác dụng thúc đẩy nông nghiệp phát triển và ngược lại. Nhu cầu của thị trường quyết định hướng sản xuất nông nghiệp. Mọi biến động trên thị trường đều có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Thị trường cũng có tác dụng điều tiết đối với sự hình thành và phát triển vùng chuyên môn hóa nông nghiệp. Ở các nước trên thế giới, xung quanh các thành phố trung tâm công nghiệp lớn đều hình thành vành đai nông nghiệp ngoại thành mà hướng chuyên môn hóa là sản xuất rau xanh, thịt, sữa, trứng, dù rằng có thể điều kiện tự nhiên không thật thuận lợi. Điều đó chỉ có thể lí giải được bằng nhân tố thị trường tiêu thụ.
e. Vốn
Nguồn vốn có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển và phân bố nông nghiệp, nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Nguồn vốn tăng nhanh, được phân bố và sử dụng một cách có hiệu quả sẽ tác động đến tăng trưởng và mở rộng sản xuất, đáp ứng các chương trình phát triển nông nghiệp (như nuôi trồng thuỷ sản, đánh bắt xa bờ), đưa tiến bộ khoa học - công nghệ vào nông nghiệp…
f. Chính sách
Quan hệ sở hữu và chính sách nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới con đường phát triển và các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp. Chính sách khoán 10 ở Việt Nam từ năm 1988 là một thí dụ sinh động. Hộ nông dân được coi là một
Phát triển nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng trong thời kì công nghiệp hóa
đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài để phát triển sản xuất, được tự do trao đổi hàng hoá, mua bán vật tư. Kinh tế hộ nông dân đã tạo đà cho việc khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng sẵn có, sản xuất nông nghiệp nước ta tăng lên rõ rệt. Có thể nói chính sách khoán hộ đã tạo động lực cho tăng trưởng nông nghiệp trong những năm 90 của thế kỉ XX.
Ngoài ra các chương trình giao đất, giao rừng cho các hộ nông dân đã thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển mạnh mẽ.
g. Bối cảnh trong nước và khu vực: không chỉ thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp và giá cả nông sản mà còn có tác dụng điều tiết đối với sự hình thành phát triển các vùng nông nghiệp chuên môn hóa.
1.1.3. Các tiêu chí đánh giá
Việc lựa chọn các chỉ tiêu trong nghiên cứu kinh tế - xã hội là một vấn đề rất quan trọng nhằm đưa ra những căn cứ để đánh giá một cách sát thực nhất vấn đề nghiên cứu, từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp và mang tính khả thi cao.
Trong đánh giá phát triển nông nghiệp (theo nghĩa rộng), các nhà kinh tế thường dựa vào các chỉ tiêu chủ yếu sau:
1.1.3.1 GDP nông nghiệp và tỉ trọng GDP nông nghiệp so với GDP toàn nền kinh tế
Chỉ tiêu này phản ánh vị trí của ngành nông nghiệp trong cơ cấu toàn bộ nền kinh tế của một vùng, quốc gia hay khu vực, đồng thời cũng là thước đo để đánh giá trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đối với các nước đang phát triển có điểm xuất phát thấp, nền kinh tế dựa vào sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, tỉ trọng của nông nghiệp thường chiếm từ 20% – 30% GDP. Trong khi đó, ở các nước phát triển, nông nghiệp chỉ chiếm từ 1% – 7%. Hay ở Việt Nam , GDP nông - lâm - thủy sản chiếm 20,6% năm 2010, riêng nông nghiệp chiếm trên 2/3.
Theo xu hướng phát triển hiện nay sẽ có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần tỉ trọng của ngành nông nghiệp, tăng tỉ trọng của công nghiệp và dịch vụ. Nông