Ngh ệ thuật xây dựng nhân vật

Một phần của tài liệu đặc điểm truyện ngắn lưu trọng lư (Trang 69 - 77)

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮN LƯU

3.1. Ngh ệ thuật xây dựng nhân vật

Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi vì đó là hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Thông qua nhân vật, nhà văn khái quát các tính cách, số phận con người và các quan niệm về chúng.

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư không đông đảo nhưng khá đa dạng về thành phần: nhà nho, nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà họa sĩ, người hát xẩm, đứa trẻ nghèo, người nông dân nghèo, người vú em, thanh niên, học sinh, sinh viên, có cả ông cố đạo và tên cướp. Tìm hiểu thế giới nhân vật này, chúng ta thấy có đặc điểm sau đây:

Lưu Trọng Lư “thường xây dựng những nhân vật chính như là những con người thất bại” [42, 17]. Kiểu nhân vật này xuất hiện ở hầu hết các kiểu loại truyện ngắn, gắn với tất cả đề tài sáng tác của ông.

Trong truyện ngắn dã sử Người sơn nhân, nhân vật chính vốn là một tên lính của ông Đề Trực – quân của vua Hàm Nghi. Khi vua Hàm Nghi thất bại, thân sĩ tán loạn, người sơn nhân cùng hai người đổ đảng rủ nhau trốn vào rừng, lập nên một trang trại nhỏ và sống bằng nghề cướp bóc. Sau đó ông ta bị bắt và bị giam trong ngục tối. Cảnh tù tội xiềng xích khiến ông ta như điên dại, đã có phen cắn lưỡi mà không chết. Khi được chuyển sang bệnh viện, ông ta đã bỏ trốn tìm về trang trại cũ. Tất cả vẫn vẹn nguyên, chỉ có hai người đồ đảng là không thấy tăm hơi. Từ đó người sơn nhân sống một mình, nghênh ngang riêng một thế giới, làm bạn với cọp, beo và vui thú với “những điều to lớn của vũ trụ” [42, 33]. Rõ ràng ở người sơn nhân - một tên tướng cướp có số phận khác thường, có hình ảnh của một người anh hùng thất thế, phải trốn khỏi cái “vòng nhân thế” đặng “cái chí khí anh hùng” được “dọc ngang ngang dọc” [42, 31]. Thông qua nhân vật này, tác giả muốn thể hiện một khát khao tự do, một tiếng nói phản kháng trước xiềng xích của xã hội thực dân nửa phong kiến bấy giờ: “Ôi xiềng xích! Nó không cho tôi sống đã đành, mà không cho tôi chết! (…) Cái xác thịt của tôi không thấy đau đớn chút nào, chỉ có tâm hồn mãnh liệt của tôi, cái khí phách anh hùng của tôi là đau đờn mà thôi” [42, 32]. Tuy nhiên, đây là tiếng nói phản kháng đầy bế tắc: “Người sơn nhân của tôi là một sự bế tắc dày đặc của tâm hồn tôi” [42, 1388].

Trong truyện ngắn dã sử Chiêm Thành, nhân vật chính Chế Văn Tô cũng là một người thất bại. Khi quân Nam Việt tràn đến, chàng và người dân xóm Cảo Đa phải trốn chạy vào phía Nam. Giữa lúc nghỉ chân trên đường trốn chạy, nỗi nhớ quê trào dâng mãnh liệt khiến chàng lén trở về làng mình.

Nhìn cảnh tượng hoang tàn, chết chóc, lòng chàng càng thêm đau đớn. Nỗi

đau làm chàng như chết lịm, hồn chàng quay cuồng giữa thực và mộng. Trong cơn mê, chàng thét lên: “Tôi kẻ đau đời, một kẻ bơ vơ, một đứa lạc loài, một người dân mất nước, Chiêm Thành! Ôi Chiêm Thành tổ quốc” [42, 75]. Rồi chàng lại ra đi, “lững thững, nặng nề” [42, 75]. Chế Văn Tô là hình ảnh một bậc trượng phu bất lực trước cảnh nhà tan, nước mất. Thông qua nhân vật Chế Văn Tô, tác giả đã bày tỏ nỗi niềm cảm hoài và tình yêu quê hương đất nước của mình.

Trong câu chuyện truyền kì Ly Tao tuyệt vọng, nhân vật Phan Chí Y là một nhà nho bất đắc chí. Chàng có “một bầu máu nóng hăm hở mang ra giúp đời, mà rồi sự nghiệp không thành, đành tiu nghỉu lui về với cỏ cây non nước” [42, 39]. Trong tâm trạng chán nản, cô đơn, chàng đã xem Ly Tao như một người yêu, người tri kỉ, người đem lại cho chàng niềm hi vọng: “Ly Tao hẳn với ta đây cùng chung một tâm sự. Tâm hồn ta với tâm hồn Ly Tao cùng hòa theo một điệu. Một mối thất vọng, với một mối thất vọng khác sẽ thành một mối hi vọng. Có Ly Tao mà ta sẽ trở lại với đời”[ 42, 41]. Nhưng tình yêu cùng niềm hi vọng ấy cũng nhanh chóng rơi vào hư vô. Rõ ràng, nhân vật là một người thất bại, thất bại trong lí tưởng sự nghiệp và trong cả tình yêu.

Trong các truyện ngắn tâm lí viết tình yêu, phần lớn các nhân vật đều được tác giả mô tả thành kẻ thất bại. Chẳng hạn như chàng trai trong Cô bé hái dâu, Tình trong giây lát, Một lần tôi đi qua, họa sĩ Lộc trong Bó lan trắng, cô thiếu nữ trong Người mua hoa, Vân và Bình trong Nàng Vân may áo cho chồng, Vinh và Vân trong Khỏi truông… Sự thất bại của họ được lí giải chủ yếu như là kết quả của những mối tình đầy đắm say và mơ mộng ảo tưởng song đơn phương và thầm kín, nhưng cũng có khi là hậu quả của những trở ngại từ lễ giáo, trong khi sự phản kháng của họ gần như không có. Thông qua những nhân vật này, chúng ta thấy được cái cá tính cùng nguồn cảm hứng

sáng tạo của tác giả. Đó là nghệ sĩ rất đỗi đa tình và mơ mộng, coi sáng tác như là sự giãi bày, sự tự biểu hiện tâm hồn mình để làm đẹp cho hồn người.

Trong các truyện ngắn thế sự, tác giả xây dựng những nhân vật thất bại nhằm tô đậm cái hoàn cảnh, số phận đáng thương của họ, qua đó phản ánh chân thực cái hiện trạng xã hội.

Nhân vật Thằng Cạc là một ví dụ. Cạc là một con chim khao khát được sổ lồng. Nhưng bi kịch của nó là ở chỗ đã trốn thoát được những khổ sở nhục nhã khi sống ở nhà thì lại rơi vào cái đói khi bước ra xã hội, tức thoát khỏi cái lồng này lại rơi vào cái lồng khác, rộng lớn hơn nhưng khắc nghiệt hơn. Cuối cùng để được sống, nó đã tự động trở về cái lồng cũ. Sự thất bại của Cạc đã khắc sâu sự bất hạnh, đáng thương của những đứa trẻ nghèo.

Trong Thi sỹ, nỗi khổ tâm của Văn Hữu có thể xem là một sự thất bại đối với một người nghệ sĩ có lí tưởng nghệ thuật cao đẹp nhưng cuộc sống lại quá túng thiếu, phải cầm cố cả cái quần, cái áo của vợ mình. Cùng với những nhân vật trí thức trong truyện ngắn Nam Cao, hình tượng nhân vật này đã góp phần tái hiện chân thực, xúc động cuộc sống, nỗi bi kịch của những nhà văn, nhà thơ trong xã hội bấy giờ.

Những dẫn chứng trên chứng tỏ kiểu nhân vật thất bại xuất hiện như một hệ thống trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư. Đây là một nét khá nổi bật trong cách tổ chức nhân vật của tác giả.

Nhân vật của Lưu Trọng Lư thường là những con người thất bại nhưng ở họ vẫn toát lên những phẩm chất tốt đẹp. Ở Phan Chí Y, đó là “tấm lòng băng tuyết” của một nhà nho cùng với sự đồng cảm, xót thương cho những kẻ sĩ bạc mệnh. Ở Chế Văn Tô, đó là tấm lòng yêu quê hương, yêu Tổ quốc. Ở nhân vật người vú em, đó là tình thương và sự hi sinh hết mực vì chồng con.

Ở thằng Cạc, đó là bản chất hiền lành. Lớn lên trong một môi trường đặc biệt,

nó ít nhiều bị tiêm nhiễm. Bằng chứng là nó từng lén lấy cái mâm đem cầm.

Thế nhưng khi đối diện với cái đói, nó thà quyết định trở về nhà, nơi mà nó luôn muốn trốn khỏi, hơn là ở lại sống bằng nghề trộm cắp. Rõ ràng, đó căn bản là một người lương thiện. Các nhân vật trong những câu chuyện tình yêu của Lưu cũng như vậy. Tất cả đều là những người đa tình, mơ mộng, nhưng khi yêu họ yêu bằng cả tâm hồn. Tình yêu của họ tình yêu đơn phương, tình yêu mơ mộng nhưng rất chân thành và chung thủy. Trong tình yêu họ không phải là người ích kỉ. Với họ, tình yêu bao gồm cả tình thương (Cô bé hái dâu) và yêu là mong muốn người mình yêu hạnh phúc (Chiếc áo rét).

Như vậy, hầu hết những nhân vật của Lưu Trọng Lư là nhân vật chính diện. Các nhân vật ấy đều là những nhân vật hiền lành và giàu tình cảm, đều biểu hiện một vẻ đẹp, một lí tưởng thẩm mỹ của nhà văn. Trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, hầu như chúng ta không tìm thấy những nhân vật xấu, xấu về ngoại hình, đặc biệt là về tính cách tâm hồn. Ngay cả người sơn nhân - một tên tướng cướp ngang tàng sẵn sàng giết người cướp của, nhưng cũng không gợi cho người đọc cảm giác sợ hãi, căm phẫn. Dưới ngòi bút tác giả, ông ta là một người có khí phách, thật đáng trân trọng. Hay như nhân vật ông Phán trong Cái vò sữa của cô Perrette, đó là một kẻ sợ vợ, già mà còn mê có vợ bé.

Nhưng qua cách miêu tả của tác giả, nhân vật này không hẳn là nhân vật phản diện. Đọc tác phẩm, chúng ta thấy hắn đáng cười hơn đáng ghét.

Các nhân vật của Lưu Trọng Lư còn có chung một đặc điểm nữa là thường không rõ ngoại hình, ít hành động, tính cách mờ nhạt và ít được xây dựng theo phương thức cá thể hóa. Đây vốn là đặc trưng trong cách tổ chức nhân vật của văn xuôi trữ tình. Cách tổ chức nhân vật này xuất phát từ quan niệm nghệ thuật về con người: luôn nhìn về con người cá nhân ở chiều sâu của tâm linh với các trạng thái tâm lí, cảm xúc, cảm giác. Ở đó không phải là nhân vật làm gì mà cái chính là nghĩ gì và cảm xúc như thế nào. Theo Nguyễn

Tuân, “cái chính trong truyện là nhân vật có làm, phải làm cái này cái kia;

nhưng nhân vật có cảm, có suy nghĩ nữa. Và cái thế giới bên trong đó của nhân vật rất cần cho sinh khí tiểu thuyết” [70, 443].

Trong những câu chuyện tình yêu của Lưu Trọng Lư, những chi tiết miêu tả hình dáng bên ngoài của nhân vật gần như không có. Nhân vật thường rất ít nói năng và hành động. Ở đây nhân vật chủ yếu xuất hiện qua dòng tâm trạng, cảm xúc. Chẳng hạn như nhân vật Phan Chí Y. Thật khó để vẽ nên chân dung bên ngoài của nhân vật này. Trong khi chân dung bên trong nhân vật lại hiện lên rõ ràng, chi tiết. Đó là một người luôn mang nặng nỗi niềm u uẩn, thất vọng. Tương tự là nhân vật họa sĩ Lộc. Sự tồn tại của nhân vật này không dựa vào diện mạo và hành động, bởi diện mạo thì không được miêu tả, còn hành động thì lặp đi lặp lại ở việc nhìn thấy và tưởng tượng. Sức thu hút của nhân vật là ở đời sống nội tâm, biểu hiện qua một chuỗi cảm xúc: “ngạc nhiên”, “hớn hở”, “sung sướng”, “ngất ngây, say sưa”, “cảm động” và “thèn thẹn”. Trong Cô bé hái dâu, Một lần tôi đi qua, Người mua hoa,... nhân vật chính cũng là những người không ngoại hình. Còn về hành động của nhân vật, tác giả có miêu tả. Tuy nhiên việc miêu tả hành động không phải là để khắc họa tính cách nhân vật mà hành động được xem là sự biểu hiện của những tâm trạng, cảm xúc, cảm giác bên trong nhân vật. Các hành động của chàng trai trong Cô bé hái dâu cũng như chàng trai trong Một lần tôi đi qua đều bắt nguồn từ những cảm xúc yêu đương mơ mộng trong lần đầu thoáng gặp người thiếu nữ. Còn hành động của cô gái trong Người mua hoa phản ánh cái tâm trạng nôn nao chờ đợi trong hạnh phúc xen lẫn lo âu thấp thỏm của cô. Những nét tâm trạng, cảm xúc của các nhân vật này luôn xuyên suốt, thấm đẫm câu chuyện. Ở đây, nhân vật tự sự đã trở nên như nhân vật trữ tình, tự biểu hiện mình qua tâm trạng, cảm xúc.

Trong những truyện ngắn của Lưu Trọng Lư thiên về bút pháp tả thực như Con chim sổ lồng, Anh Neo, ngoại hình và hành động của nhân vật cũng ít được chú ý miêu tả. Trong những truyện ngắn này, chúng ta bắt gặp những chi tiết miêu tả diễn biến tâm lí của nhân vật. Tuy nhiên, tâm lí nhân vật diễn tiến một cách nhẹ nhàng, đều đều chứ không hề có xung đột gay gắt, quyết liệt. Ví dụ, cái quyết định bỏ nhà ra đi cũng như quay trở về nhà được thằng Cạc đưa ra chỉ sau một thoáng suy nghĩ, tính toán. Ở Cạc, sự đấu tranh trong tâm lí khá mờ nhạt. Còn với nhân vật anh Neo, khi bị dồn tới bế tắc, phải quyết định bán con nhưng tâm lí của anh vẫn không có thay đổi, ở anh vẫn là sự lo lắng trầm lặng từ đầu đến cuối truyện. Nhân vật Văn Hữu trong Thi sỹ được tác giả chú trọng miêu tả dáng vẻ bên ngoài: “Trong cái áo the rộng thênh và vá nhiều chỗ, nhà thi sĩ giống như một cái bù nhìn. Cái mũ “phớt”

của bác, tôi có thể so sánh mà không làm giảm giá trị của nó đi một tý nào, - tôi có thể so sánh với cái mũ ở trên đầu bác hàng phở. Còn về đôi giày trắng của bác, thì cho phép bỉ nhân ngờ cái sự trắng của chúng nó một chút (…) Đó là tôi chưa phải tả đến cái mái tóc rủ đến tận cổ áo, cái da mặt nhăn nhó, cái bộ râu mép lởm chởm như rễ tre” [42, 83]. Trong khi tâm lí của nhân vật lại không được khắc họa rõ nét. Nếu như ở Hộ trong Đời thừa, Nam Cao đã đi sâu phân tích, miêu tả những xung đột đau đớn, dai dẳng trong tâm lí nhân vật nhằm khắc sâu cái bi kịch tinh thần của một nhà văn, thì ở Văn Hữu, nỗi khổ tâm của một thi sĩ hoàn toàn được giấu kín, không được biểu hiện ra qua những xung đột tâm lí.

Rõ ràng, nhân vật trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư được xây dựng theo phương thức phi tính cách hóa. Ở đây cốt lõi của nhân vật không phải là tính cách mà là loại hình. Xưa nay tính cách thường được coi là nội dung cơ bản của nhân vật thì với Lưu Trọng Lư đặc điểm tính cách nhân vật theo hướng cá thể hóa ít được nổi trội mà thường nghiêng về thuộc tính chỉ loại.

Trong sác tác của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao,… nhân vật thường là điển hình xã hội. Những Nghị Hách, chị Dậu, Chí Phèo,… là những nhân vật thể hiện tập trung những phẩm chất của một loại người, một hạng người đồng thời lại mang những nét cụ thể, cá biệt của một con người nhất định. Đó là những điển hình theo cấu trúc xã hội tính mà hạt nhân tạo thành tính cách nhân vật vẫn là cái riêng, là cá tính. Nhân vật của Lưu Trọng Lư, giống như nhân vật của Thạch Lam, Xuân Diệu, không bị buộc chặt vào tính cách và tính cách với nhu cầu cá thể hóa không phải là mối quan tâm chính. Ở đây, nhân vật không phải nhằm khái quát hóa tính cách vì tính cách không phải là toàn bộ nội dung nhân vật. Những mẹ Lê, cô Tâm, cô Thảo, cô Hoa, chị Yên,… trong truyện ngắn Thạch Lam đều là sự thể hiện những đặc điểm tính cách cả người phụ nữ nông dân Việt Nam ngày trước. Ở đó mỗi người có một cảnh ngộ, duyên phận riêng nhưng rõ ràng những đặc điểm, thuộc tính chỉ loại thường lấn lướt và đậm đà hơn so với bản sắc cá tính. Những nhân vật trong Phấn thông vàng của Xuân Diệu không phải là những con người xã hội, những con người đại diện cho một tầng lớp, hạng người mà là những con người mang chiều sâu nội tâm, cảm xúc, cảm giác. Chúng ta cũng không thể xem những nhân vật thanh niên học sinh trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư là những cá tính xã hội, cá thể, bởi ở đây tác giả không hề chú trọng phác họa bộ mặt giai cấp mà chỉ chú ý biểu hiện tâm trạng, cảm xúc của họ. Như vậy, thật khó tìm thấy trong trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư những cá tính mạnh mạnh mẽ, gân guốc, góc cạnh, chỉ có những nhân vật mang tâm trạng, cảm xúc. Điều đó chứng tỏ khi xây dựng nhân vật, tác giả chỉ quan tâm đến đời sống nội tâm bên trong nhân vật. Đó là hạt nhân cơ bản để nhìn nhận đánh giá con người, để hiểu cuộc đời và thêm yêu cuộc sống.

Tóm lại, Lưu Trọng Lư không chú trọng xây dựng những nhân vật toàn diện cả về hình dáng bên ngoài lẫn tính cách bên trong. Đọc truyện ngắn của

Một phần của tài liệu đặc điểm truyện ngắn lưu trọng lư (Trang 69 - 77)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(119 trang)