CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮN LƯU
3.3.2. K ết cấu phi tuyến tính
Kết cấu phi tuyến tính cũng là kiểu kết cấu thường gặp trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư. Đây là kiểu kết cấu mà việc trần thuật không tuân theo trình tự thời gian thông thường. Có thể kể ra một số truyện có kiểu kết cấu này như Người sơn nhân, Cái đời hát xẩm, Con vú em, Chiếc áo rét, Một lần tôi đi qua, Tình trong giây lát, Thi sỹ, Nàng Vân may áo cho chồng.
Trong phần lớn truyện ngắn có kết cấu phi tuyến tính của Lưu Trọng Lư, câu chuyện được kể theo trình tự đảo ngược: bắt đầu từ một thời điểm hiện tại rồi quay trở về quá khứ bằng sự hồi tưởng. Ví dụ như truyện ngắn Con vú em, Cái đời hát xẩm, Chiếc áo rét, Nàng Vân may áo cho chồng,...
Truyện ngắn Con vú em mở đầu bằng cảnh nhân vật “tôi” đang “ngồi hí hoáy với ba tờ giấy lộn, vò đầu bức trán để viết một cái đoản thiên” [42, 75]
thì có một người bạn tên Bảo đến chơi. Trong lúc trò chuyện, nhân vật Bảo hồi tưởng và kể lại chuyện con vú em của nhà mình. Câu chuyện này diễn ra trước đó khoảng 6 – 7 tháng.
Truyện ngắn Cái đời hát xẩm cũng mở đầu bằng cảnh gặp gỡ: một thợ săn từ phương xa ghé thăm ngôi nhà của người hát xẩm nằm biệt lập giữa một khoảng rừng rậm rạp, hoang vắng. Sau những lời thăm hỏi nhau, người hát xẩm bắt đầu kể lại cuộc đời của mình - từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi trở thành người hát xẩm, rồi lấy vợ và cùng người vợ trốn chạy đến nơi ở hiện tại, sau đó người vợ qua đời, người hát xẩm sống đơn độc .
Mở đầu truyện ngắn Chiếc áo rét là những lời bộc bạch đầy buồn bã, luyến tiếc của nhân vật “tôi” khi tình yêu đã tan vỡ. Rồi theo dòng kí ức của
“tôi”, câu chuyện tình yêu thầm kín, đầy mơ mộng được kể lại, bắt đầu từ những lần “tôi” nhìn trộm” cô gái đan áo rét.
Câu chuyện trong Nàng Vân may áo chồng cũng được kể theo trình tự hiện tại – quá khứ. Tuy nhiên, ở đây tác giả không sử dụng hình thức hồi tưởng để kể chuyện mà dung hình thức thư tín. Truyện bắt đầu từ sự việc người kể chuyện đến thăm nhân vật Bình ở bệnh viện. Lúc đó, Bình đã như
“người mất hẳn thần xác”, tâm trí chàng nửa tỉnh nửa mê, ngồi một mình mà chàng cứ tưởng Vân đang tới thăm và trò chuyện với mình. Ba hôm sau thì Bình mất. Bình để lại một tập di bút bỏ ở trong một hộp giấy. Người kể chuyện mở hộp giấy ra xem thì thấy có những mẫu giấy viết bằng viết chì, đó là những dòng nhật kí của Vân. Những trang nhật kí đã ghi lại những sự việc diễn ra trước đó: Biết Bình bệnh, Vân tới thăm. Trở về nhà, nàng đan một chiếc áo rét cho Bình, nhưng khi chồng nàng hỏi thì nàng bảo đan cho chồng.
Rồi nàng nhuốm bệnh. Mỗi ngày bệnh càng thêm trầm trọng. Chiếc áo rét chưa kịp hoàn thành thì Vân đã mất. Dòng nhật kí cuối cùng của nàng là lời từ biệt Bình: “Anh tiễn em một đoạn thôi nhé. Em không muốn anh đi nhiều.
Gió lạnh về ho thêm” [42, 102]. Bằng hình thức nhật kí, câu chuyện tình ngang trái được kể một cách đầy cảm xúc, gây xúc động cho người đọc. Qua
đó, tiếng nói tố cáo lễ giáo phong kiến là nguyên nhân dẫn đến cái kết bi thảm trong câu chuyện cũng được thể hiện kín đáo.
Trong hai truyện ngắn có kết cấu phi tuyến tính là Một lần tôi đi qua và Người sơn nhân, câu chuyện được kể lại theo trình tự hiện tại – quá khứ - hiện tại.
Truyện Một lần tôi đi qua mở đầu bằng một tình huống đang diễn ra:
“Bạn tôi hút xong điếu thuốc lá, nói tiếp” [42, 116]. Tiếp đến là những dòng hồi tưởng của nhân vật này về một mối tình đã qua của mình. Dòng hồi tưởng kết thúc cũng là lúc nhân vật trở về với thực tại: “Một ngọn gió ngoài vườn đưa vào, đánh ập cánh cửa sổ một cái thật mạnh, bạn tôi cầm mũ đi ra khỏi phòng của tôi, như đi ra khỏi một giấc mộng” [42, 121].
Mở đầu truyện ngắn Người sơn nhân là cảnh đoàn thám hiểm gặp gỡ người sơn nhân ở vùng núi Giăng Màn kì vĩ, cổ sơ. Người sơn nhân là ai, tại sao ông ta lại ở nơi này? Câu trả lời nằm ở phần tiếp theo của truyện ngắn.
Qua lời kể của người sơn nhân, quá khứ của ông ta được mở ra. Nhưng đến đoạn kết, câu chuyện lại trở về thời điểm ở đầu truyện với hình ảnh khép nép sợ sệt của đoàn thám hiểm trước vũ trụ rộng lớn và nụ cười “bạn nghịch với hòa bình vũ trụ” của người sơn nhân [42, 34].
Ở cả hai truyện ngắn, tác giả đều sử dụng hình thức hồi tưởng để kể lại phần chính yếu câu chuyện. Tuy nhiên, ở Một lần tôi đi qua, dòng hồi tưởng diễn ra liên tục hòa cùng với dòng cảm xúc tuôn tràn của nhân vật. Nhờ vậy là cái tôi trữ tình của người kể được bộc lộ rất rõ. Đó là vấn đề chủ yếu mà tác giả muốn thể hiện trong những truyện ngắn viết về tình yêu. Còn ở Người sơn nhân, những lời kể của người sơn nhân luôn được đặt xen kẽ với những lời đối thoại với ông cố đạo. Qua đó, sự đối lập trong thái độ, tư tưởng của hai nhân vật được thể hiện rất rõ, nhất là ở đoạn kết tác phẩm. Điều này góp phần thể hiện rõ tiếng nói khao khát tự do, tiếng nói phản kháng mà tác giả gửi gắm
thông qua hình tượng người sơn nhân. Đây cũng là chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Về việc tổ chức điểm nhìn trần thuật, những truyện ngắn có kết cấu phi tuyến tính của Lưu Trọng Lư thường có sự di động điểm nhìn, từ điểm nhìn tác giả chuyển sang điểm nhìn nhân vật, từ điểm nhìn của nhân vật này sang điểm nhìn của nhân vật khác.
Truyện ngắn Chân ái tình mở đầu bằng điểm nhìn trần thuật của tác giả:
“Mưa phùn! Gió bấc lạnh buốt tủy xương. Bao nhiêu sức hoạt động của loài người đều giam hãm lại bên ngọn lửa than, thế mà chiều hôm ấy, trên văn Miếu quạnh hiu lại thấy thướt tha cái bóng một người thanh niên buồn rầu, mệt nhọc, như cố tìm lại mà chẳng thấy một cái gì đã mất đi (…)” [42, 48].
Sau đó câu chuyện được trần thuật với điểm nhìn của nhân vật. Đầu tiên là nhân vật Vân Bình - chàng thanh niên xuất hiện qua lời giới thiệu ở đầu tác phẩm: “Từ ngày chàng chưa biết gì mà chàng đã phải lòng một cô gái đẹp ở Hà Thành. Cái ái tình của hai người chỉ là cái ái tình của Ngưu Lang với Chức Nữ, suốt năm xa nhau nhớ nhau đặng có một ngày gặp nhau. Nhưng đã hai lần rồi, chàng không thấy Chức Nữ của chàng đâu nữa. Vì thế mà chàng đau đớn ê chề, nhưng chàng vẫn không ngã lòng” [42, 49]. Kế đến, điểm nhìn di chuyển sang nhân vật thứ hai - người thanh niên cũng đến Văn Miếu như Vân Bình: “Bây giờ tôi đã hiểu ông lắm rồi. Tôi không muốn trách ông sao ông lại bảo này là cảnh đìu hiu quạnh quẽ, là cái cảnh chết… Tôi chỉ tiếc sao ông với tôi hình như cũng bởi một cái nguyên do xui khiến tới đây mà ông với tôi lại có chỗ khác nhau. Ông về đây là để tìm lại dấu vết của một thứ ái tình ngắn ngủi cây đắng mà vô vị. Còn tôi về đây lại mang theo một cái hình ảnh xinh xắn tươi cười mà linh động, cái hình ảnh mĩ nhân mà tôi đã thấy một lần” [42, 49-50]. Việc tác giả trao điểm nhìn trần thuật cho cả hai nhân vật trong câu chuyện là để hai nhân vật tự bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ về tình yêu.
Với Vân Bình, tình yêu là đau khổ; còn với người thanh niên kia, tình yêu lại là hạnh phúc dù chỉ tình yêu trong mơ mộng. Như vậy, Lưu Trọng Lư đã không phát biểu trực tiếp quan niệm về “chân ái tình” của mình mà phát biểu thông qua lăng kính của các nhân vật. Nhờ đó, cái triết lí về tình yêu của ông có thêm sức thuyết phục bởi nó đã được đút kết từ chính sự chiêm nghiệm, từng trải, từ chính cảm xúc của người trong cuộc.
Trong truyện ngắn Thi sỹ, điểm nhìn trần thuật có sự di chuyển từ người kể chuyện – nhân vật tôi sang nhân vật thi sỹ và ngược lại. Khi nhập thân vào nhân vật thi sỹ, tác giả đã nói lên được những lí tưởng cao đẹp của một người nhà thơ chân chính: “ Tiền tài – một vấn đề khốn nạn với kẻ làm thơ (…) Bỉ nhân thấy hạnh phúc của bỉ nhân khi tạo tác ra được một câu thơ, thế cũng đủ làm cho bỉ nhân vui thích, cần gì nó cũng phải có một cái giá tiền như cái bánh trung thu” [42, 84]. Khi đóng vai một nhân chứng kể chuyện, tác giả lại bày tỏ được sự thấu hiểu, thương cảm, xót xa trước cuộc sống thiếu thốn của những người nghệ sĩ: “Tôi thì tôi thấy có một ngòi bút sắt đâm ngang qua quả tim tôi” [42, 85]. Ở đây, sự di động của điểm nhìn trần thuật đã làm cho khoảng cách giữa người trần thuật và nhân vật được rút ngắn lại. Khi theo dõi câu chuyện, người đọc cũng sẽ có được cái nhìn đa chiều hơn về vấn đề đặt ra trong tác phẩm, do đó khoảng cách giữa người đọc với tác phẩm cũng được rút ngắn lại.
Trong truyện ngắn Người sơn nhân, ngay từ đầu là điểm nhìn của tác giả. Điểm nhìn tác giả dẫn người đọc vào một không gian đầy bí hiểm với sự xuất hiện của những nhân vật cũng bí hiểm không kém, tạo cảm giác lạ lẫm cho người đọc. Tiếp đó, với điểm nhìn trần thuật là điểm nhìn của nhân vật người sơn nhân, nội dung câu chuyện được mở rộng với một khoảng không gian, thời gian và những sự kiện khác, ở đó “cái lịch sử hiển hách” cùng với
“cái chí khí anh hùng” của nhân vật này được tô đậm.
Như vậy, với điểm nhìn trần thuật di động, Lưu Trọng Lư đã đem đến cho người đọc cái nhìn đa chiều về thế giới tâm hồn của con người và về những vấn đề của hiện thực cuộc sống. Nó góp phần tạo nên hiệu quả nghệ thuật cho một số truyện ngắn của ông.
Về cách mở đầu và cách kết thúc truyện, nhiều truyện ngắn phi tuyến tính của Lưu Trọng Lư có lối mở đầu và kết thúc giống như ở truyện ngắn tuyến tính của ông. Chỉ có một hai trường hợp có chút khác biệt. Chẳng hạn như Chiếc áo rét và Tình trong giây lát. Chiếc áo rét thì mở đầu bằng những dòng thơ:
“Một hôm ta đứng trên hồ Kiếm Bên ta rộn rịp biết bao người Mà ta chỉ thấy người hôm ấy
In giữa không gian một nụ cười (…)” [42, 88].
Trong khi Tình trong giây lát có đoạn kết như là một lời trữ tình ngoại đề: “Anh giáo Nguyễn! Anh tha lỗi cho tôi đã đưa cái tình thiêng liêng của anh ra mà mua vui cho độc giả… Cái chuyện tình làm cho anh ngớ ngẩn và bang khuâng, nhiều khi đau đớn nữa, có lẽ có người đọc tới chỉ xem như một tấn tuồng buồn cười đến khuây họ, trong lúc họ giận vợ con, hay là thua bài thua bạc” [42, 114].
Tình cảm, cảm xúc, thái độ của người kể chuyện đã được bộc lộ trực tiếp trong những câu thơ và những dòng trữ tình ngoại đề này. Điều đó góp phần làm gia tăng sức biểu cảm cho tác phẩm, đồng thời cũng gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ, cảm xúc về câu chuyện.
Tóm lại, việc tổ chức tác phẩm theo kết cấu phi tuyến tính đã cho thấy sự nổ lực nhằm đa dạng hóa lối viết truyện của Lưu Trọng Lư. Ở một số truyện ngắn, kiểu kết cấu này đã tạo ra được những hiệu quả thẩm mĩ nhất định, góp phần chuyển tải thành công chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Chẳng
hạn như Người sơn nhân, Thi sỹ. Nhưng ở một số truyện ngắn như Cái đời hát xẩm, Con vú em, lối kết cấu này dường như chưa phát huy được hiệu quả, nó làm tác phẩm trở nên dàn trải, lỏng lẻo.