Không gian ngh ệ thuật trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư

Một phần của tài liệu đặc điểm truyện ngắn lưu trọng lư (Trang 100 - 119)

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮN LƯU

3.5. Không gian ngh ệ thuật trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư

Không gian nghệ thuật là không gian mà người nghệ sĩ cảm nhận, chiếm lĩnh và thể hiện một cách nghệ thuật trong tác phẩm. Nó góp phần phản ánh góc nhìn và cách tiếp cận hiện thực cuộc đời của người nghệ sĩ. Tùy theo cảm quan và năng lực sáng tạo mà người nghệ sĩ sẽ tạo dựng trong tác phẩm của mình những không gian nghệ thuật với riêng. Đối với các nhà văn hiện thực ở nước ta trước 1945, không gian nghệ thuật thường được tái hiện giống như cuộc sống vốn có trong các giềng mối liên hệ nhằng nhịt nhằm thể hiện những xung đột cơ bản có ý nghĩa thời đại, giai cấp. Tiêu biểu như không gian làng Vũ Đại trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao. Làng Vũ Đại được xem là một hình ảnh chân thực thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời.

Ở đó, Nam Cao đã đi sâu miêu tả, phân tích nổi bật các quan hệ xã hội ở một làng quê trước Cách mạng. Đó là mối mâu thuẫn thường xuyên trong nội bộ bọn cường hào địa chủ thống trị. Chúng như “một đàn cá tranh mồi”, do đó luôn rình cơ hội để ‘trị nhau”, “chờ nhau lụn bại để cưỡi lên đầu lên cổ”. Đặc biệt, mối mâu thuẫn giai cấp đối kháng gay gắt giữa bọn địa chủ cường hào

thống trị với người nông dân lao động bị áp bức bóc lột được tác giả tập trung thể hiện một cách sâu sắc. Mâu thuẫn đó dẫn đến những bi kịch: người nông dân bị lưu manh hóa, mất cả nhân hình nhân tính và bị chối bỏ không cho làm người. Với các nhà văn lãng mạn, khung cảnh nghệ thuật trong truyện ngắn thường được cảm nhận với một nỗi se ḷòng bởi cái chất đìu hiu, phẳng lặng đến đơn điệu, mòn mỏi của nó. Khung cảnh ấy ít có cái xô bồ, dữ dội của những mảng sống bộn bề, gay cấn như trong sáng tác của các nhà văn hiện thực mà nó thường được phác họa một cách mờ mờ, nhàn nhạt, không chói gắt, không có những vang động mạnh nhưng gợi bao ám ảnh không thôi về những cảnh đời ngày đó. Chẳng hạn như không gian trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Đó là khung cảnh một phố huyện nghèo nàn, nhỏ bé, chìm dần vào bóng tối. Bóng tối mỗi lúc càng trở nên mênh mông, dày đặc, ánh sáng thì hiếm hoi, đơn độc. Nổi lên trong bức tranh mờ xám, ngập tràn bóng tối ấy là những con người lặng lẽ như những cái bóng, quẩn quanh, hiu hắt, tàn lụi, với họ có quá ít hi vọng, niềm vui và hạnh phúc. Hay trong Tỏa nhị kiều của Xuân Diệu, không gian như đặc sền sệt, như vón cục lại trong nỗi trì độn, ngái ngủ đến kinh sợ. Cuộc sống của hai cô gái chỉ là những buổi chiều dài vô vọng nối tiếp nhau. Họ sống vật vờ, ngơ ngác như những kẻ vô hồn. Cuộc sống của mấy ông giáo trường tư, người học trò tốt, người viên chức… cũng chỉ là một số chết mòn lặng lẽ. Những ao ước tầm thường, nhỏ mọn thậm chí cả khi chết đi chỉ mong “trước mặt chúng tôi đừng có một cái bàn giấy” đã nói lên nỗi chán ngán đến tận cùng cuộc sống tẻ nhạt, nhờ nhờ kia [8,108].

Không gian nghệ thuật trong các truyện ngắn của Lưu Trọng Lư không có cái vẻ bộn bề, phức tạp như hiện thực cuộc sống vốn có, cũng không phải là không gian tràn nỗi buồn và bóng tối, với tất cả sự mòn mỏi, đơn điệu, khép kín. Hiện lên trong các trang truyện của Lưu Trọng Lư thường là những

khung cảnh thiên nhiên thơ mộng hòa quyện với cảm xúc trữ tình của nhân vật hoặc những không gian hư ảo, kì bí được cảm nhận thông qua lăng kính lãng mạn của tác giả.

Những khung cảnh thiên nhiên thường gặp trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư gắn với hai vùng đất mà Lưu Trọng Lư đã từng sinh sống, gắn bó, đó là Quảng Bình và Hà Nội.

Quảng Bình là quê hương của Lưu Trọng Lư. Trong truyện ngắn Cô bé hái dâu, một khung cảnh của Quảng Bình – xóm Bích Khang đã được tác giả mô tả. Chỉ với một vài hình ảnh, chi tiết: một con sông ngắn “mặt nước im lìm như tấm gương”, “một bãi dâu xanh xa tít” và những đêm trăng “cả vũ trụ trắng xóa một thứ ánh sáng dịu dàng”, song cái vẻ thơ mộng, yên bình của một vùng quê đã hiện lên khá rõ nét. Khung cảnh ấy tương hợp với những khoảnh khắc của tâm trạng nhân vật – một chàng trai đa tình, mơ mộng. Đó là nỗi buồn trĩu nặng khi tiễn bạn ở bến sông: “con thuyền như bò như lượn, dùng dằng trước mắt tôi, làm cho cái cảnh biệt li càng thêm dài dặc, càng thêm não nùng, càng thêm khó chịu” [42, 44]. Kế đến là cảm giác bâng khuâng xen lẫn tiếc nuối, buồn bã khi bóng dáng người thiếu nữ hái dâu vừa thoáng hiện rồi mất hút: “theo giọng hát, tôi nhìn bóng người thiếu nữ. Tôi chưa kịp nhận ra mà tiếng hát đã vội dứt. Tôi muốn rẽ dâu mà vào nhưng đi được vài bước thì tự nhiên không thể tiến lên được nữa. Ruộng dâu đối với tôi có cái vẻ một rừng cây ở trong đại ngàn, đương còn bí mật, đương còn y nguyên. Tôi đứng ngây người ra như có cảm thấy một sự ghê sợ lạ lùng.

Nhưng người thiếu nữ đã cùng với mặt trời mất hút rồi. Tôi đã thấy ở đằng xa một cái bóng đen lù lù: người thiếu nữ với cái giỏ dâu, nủng nỉnh ở trên một con đường đi về xóm Bích Khang… Tôi ở lại một mình với quãng đồng vắng vẻ, lạnh lẽo, đen mờ… Tâm hồn tôi tiu nghỉu, buồn rầu nặng nề” [42, 44]. Và sau đó là những mơ tưởng miên man, tràn ngập tâm hồn chàng trai vừa chớm

yêu: “trước mắt tôi thấy diễn ra một cuộc đời êm đềm thanh thú. Tôi tưởng tượng một cô bé xinh xắn tươi cười, mỗi buổi chiều đi vào ruộng dâu, hái những lá dâu xanh. (…) Cho được có hôm nay, ngồi yên một chỗ dưới bóng trăng trong, cô bé quay những sợi tơ vàng, và mơ tưởng những chuyện xa xôi” [42, 45-46]. Ở đây, sắc thái nội tâm của nhân vật đã hòa nhập sống động vào trong những cảnh sắc thiên nhiên; khung cảnh thiên nhiên cũng là hình bóng của tâm hồn.

Một khung cảnh khác của Quảng Bình cũng được tác giả mô tả trong truyện ngắn Cái đời hát xẩm. Đó là một nơi trước kia “người ta còn thấy có dấu tích một cái thành cũ của Chiêm Thành đã đổ ngã, gạch đá đã nhường chỗ cho cây cổ thụ” [42, 51], sau đó nơi đây trở thành cái rừng con rậm rạp, ít ai qua lại. Bên trong cái rừng ấy, có một mái nhà nhỏ, một khoảnh vườn rộng trồng đủ thức rau quả và bông hoa. Đây là không gian sống “thần tiên” của vợ chồng người hát xẩm. Nơi đó diễn ra “một cuộc đời tinh thần đẹp đẽ”: “ngày ngày, khi công việc đã xong xuôi, tôi ra ngồi dưới gốc cây đào tiên, nghe tiếng hoạt động của muôn vật. Tôi biết rằng tạo vật huyền bí và đẹp đẽ vô cùng… Sống gần tạo vật tức là vui say trong trường mỹ thuật, có cái thú thanh dật của nhà thi nhân, nhà họa sỹ, cái thú không bao giờ chán” [42, 52].

Ở đó, nhân vật tìm được “sự yên ổn hoàn toàn để vui với nghệ thuật”, “vui với nhau và vui với tạo vật”: “giọng đàn tiếng sáo như làm thông tin cho hai thế giới: lòng người và vũ trụ, và giữ được người ta cùng vạn vật, trong cái trật tự thiên nhiên, trong sự hòa rập mãi mãi” [42, 57].

Hà Nội là nơi Lưu Trọng Lư từng học tập, viết văn, làm thơ kiếm sống.

Thành phố này đã để lại trong ông nhiều dấu ấn. Trong hồi kí Nửa đêm sực tỉnh, Lưu Trọng Lư viết: “Hà Nội, với chúng tôi, là cả một thế giới lạ lùng, nhiều ánh sáng mà đầy bóng tối. Thích ứng được với dòng nước mới này, con cá cũng phải trầy da tróc vẩy bao phen… Có lần chúng tôi như ở một địa

ngục. Ở trong cái địa ngục ấy, đôi khi chúng tôi cũng tìm được một dòng Ngân Sơn trong vắt. Giữa Hà Nội, đôi khi chúng tôi cũng được thấy ánh trăng xanh. Giữa cuộc sống vẩn đục bị đau quật từ bốn phía, tôi vẫn đi tìm lại những dòng thơ trong sáng nhất” [42, 1336].

Hà Nội cũng sớm đi vào trong các truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, với những cảnh sắc rất riêng: những con phố Hàng Đồng, Hàng Bông, Hàng Trống…(Con chim sổ lồng); những hồ Tây, hồ Trúc Bạch, đường Cổ Ngư…(Cái chết hiếu danh); những ngày đầu thu đẹp mơ màng “những lá bàng rơi xuống trên hai vai tôi và là là bay hạ xuống đất. Trời trong sáng.

Những hàng cây uốn mình theo gió, có cái vẻ huyền ảo như là ở trong một cảnh mộng” (Một lần tôi đi qua) hay mùa đông với những cơn mưa phùn, gió bấc (Chân ái tình)… Đó thường là không gian của tình yêu. Với chàng trai Vân Bình, Hà Nội lại là nơi lưu giữ kỉ niệm về một tình yêu tan vỡ: “thường năm, cứ độ đông về thì dầu có sự trở ngại đến đâu, Vân Bình cũng phải về Hà Nội một lần để viếng lại cái nơi Khổng miếu rất u tịch nầy. Không phải là chàng có lòng mộ đạo chi đâu; chàng chỉ là một kẻ tình nhân mê muội, về đây là để tìm lại những cái dấu vết của một cuộc ái tình buồn rầu vô vị” [42, 48].

Hà Nội còn là nơi khởi đầu của những tình yêu đầy thi vị. Trong Tình trong giây lát, tình yêu lãng mạn với những niềm vui lẫn nỗi buồn cùng những ý nghĩ ghen tuông của hai chàng thanh niên đã diễn ra nơi một cửa hàng sách ở Hàng Bông: “Rồi cứ như thế, chiều nào hai chúng tôi cũng đến cửa hàng sách. Mỗi lần vào cửa hàng, chúng tôi lại viện cho mình một cái cớ, khi thì hỏi một điều bâng quơ. Có lúc, chúng tôi cạn trí, không tìm đâu được một cái cớ nữa, thì chúng tôi đi ngang qua, chỉ nhìn vào một cái rồi đi về. Một hôm chợt nhận thấy rằng: những cái cử chỉ của mình ngày càng vô nghĩa, càng lố lăng, trong một bữa cơm, chúng tôi giơ tay thề với nhau rằng: chẳng bao giờ bén chân tới cửa hàng sách ấy nữa. Nhưng lời thề hôm trước, hôm sau đã bị

lãng quên rồi”. Hay trong Một lần tôi đi qua, tình yêu gắn với với khung cảnh một khu vườn bên trong ngôi biệt thự có tên “Eglantines” (hoa tầm xuân):

“cái vườn hoa của nàng, tôi trông có vẻ tiều tụy hơn mọi ngày, nhưng những đóa hoa cúc trắng vẫn đậm đà thám tươi như cũ. Bỗng tôi nghe từ trong nhà vọng đưa ra, những tiếng dương cầm. Những tiếng trong trẻo bay qua cửa sổ, và âm thầm tắt trong những chòm lá xanh. Tôi ngừng bước nhìn những làn cúc, tôi nhìn thấy những làn cúc trắng tự nhiên rung động anh ạ!Và tâm hồn tôi lao đao muốn ngã. Những hạt mưa vẫn nhỏ xuống ngày càng nặng. và tôi thấy trong những giọi nước lại cả cái hình ảnh của những cảnh vật xung quanh. Tôi vẫn cứ đứng thần người ra nhìn” [42, 118].

Khung cảnh thiên nhiên hiện lên trong các truyện ngắn của Lưu Trọng Lư rất thơ mộng. Khung cảnh đó thường được nhìn, được cảm nhận theo các cung bậc cảm xúc, tâm trạng nhân vật, theo hướng cảnh và tình giao hòa, quyện chặt vào nhau. Tác giả thường lấy thiên nhiên đặt trong một bối cảnh tâm lí thích hợp, hòa đồng với những sắc thái tình cảm và tâm trạng nhân vật;

những biến thái của tâm hồn, các phản ứng tâm lý, các trạng thái tinh thần được khơi gợi từ những thay đổi của thiên nhiên, ngoại giới.

Bên cạnh không gian thiên nhiên, chúng ta còn tìm thấy những không gian ảo trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư. Đây là không gian do tác giả tưởng tượng ra, nó chứa nhiều yếu tố hư ảo, kì lạ.

Truyện ngắn Người sơn nhân đưa chúng ta đến một vùng rừng núi hoang sơ như ở thời cổ đại: “Hôm thứ ba, đoàn thám hiểm đã bước được một bước dài về không gian, nhưng lại thụt lùi một bước rất dài về thời gian, hình như đã qua mấy trăm năm, mấy nghìn thế kỷ, mà trở lại cái thời cổ sơ. Bốn bề cây cối um tùm, lại thêm những tiếng vượn hót, chim kêu, cọp gầm, voi thét, hòa lẫn nhau thành một tiếng gọi thiêng liêng mà ghê gớm, tiếng gọi của Quả

Đất gọi Loài Người, lúc được Thượng đế ghi tên ghi tuổi vào pho lịch sử của Vũ Trụ” [42, 26]. So với khung cảnh Quảng Bình, Hà Nội xuất hiện trong các truyện ngắn khác của Lưu Trọng Lư; hay khung cảnh cái phố huyện lèo tèo, thưa thớt mang đặc trưng “nửa làng nửa phố”, cái phố chợ tồi tàn, lụp xụp, cái xóm nghèo ngoại ô luôn ngập ngụa và nồng nặc mùi cống rãnh hoặc cái làng quê tăm tối, bùn lấy nước đọng trong các truyện ngắn của Thạch Lam; cái không gian hiu hắt, tù lặng trong nỗi “đìu hiu của cái ao đời bằng phẳng”

trong các truyện ngắn Xuân Diệu; hoặc không gian làng Mỹ Lý nên thơ và bình lặng trong truyện ngắn Thanh Tịnh thì cái không gian trong truyện ngắn này rộng lớn, mới lạ và bí hiểm hơn nhiều. Trong cái không gian kì vĩ ấy, nhân vật được tự do, được vẫy vùng cho cái “chí khí anh hùng: “Tôi đã quen với những cái cảnh tượng lớn lao của trời đất; ở đây tôi đã làm chủ được muôn loài. Sống ở đây thì tôi cũng muốn chết ở đây, bên tiếng cọp gầm, voi thét” [42, 33].

Không gian trong truyện ngắn Ly Tao tuyệt vọng là khung cảnh sông nước mờ ảo: dòng Linh Giang với bến Văn Giang trong những đêm mùa đông. Khung cảnh lạnh lẽo và đầy ánh trăng: “cái mặt trăng mùa đông, nặng nề ủ rũ như không còn có thể nhích đi được nữa. Cỏ cây cũng rét đơ không lay động được” [42, 40]. Văng vẳng trong không gian là tiếng đàn, tiếng hát ma mị đầy mê hoặc: “Bỗng dưng trong vùng không khí ngưng trệ, vi lô san sát, khóm tre la đà, một ngọn gió nhẹ đưa, đưa lại một giây âm hưởng, tiếng trầm tiếng bổng, tiếng chậm tiếng mau (…) Theo nhịp đàn, một khúc hát du dương, càng nghe càng thấm thía, càng nghe càng thâm trầm (…) Ai? Người hay là ma? Ấy là tiếng rền rĩ của một vùng không khí lạnh lẽo tái tê, hay là tiếng vỡ lở của một con tim âu sầu ủ rũ?” [42, 40]. Tất cả hòa quyện, tạo nên một thế giới huyền ảo, khiến nhân vật sống chập chờn giữa thực và mộng:

“Phan sinh cứ ngồi mê mẩn, đợi có một con cá đớp vào mồi, thì mới giật

mình tỉnh dậy. Tỉnh dậy trong chốc lát rồi lại trở vào cõi mộng” [42, 42]. Cái nền không gian ấy làm cho câu chuyện tình yêu thêm phần lãng mạn, huyền hoặc.

Trong truyện ngắn Chiêm Thành, chúng ta cũng bắt gặp một không gian đan xen giữa thực và ảo. Đó là những cánh đồng ruộng xanh, những con cò trắng, những ngày vui vẻ, thái bình” hiện lên trong nỗi nhớ của Chế Văn Tô: “Những cảnh vật thân yêu, những kỉ niệm nồng nàn thuở ấu thơ” cứ hiện lên trong trong tâm trí chàng, trong khi bây giờ tất cả chỉ là một “quang cảnh rất dìu hiu lạnh lẽo”, “nhà cửa vườn tược: một đống tro tàn nguội lạnh” [42, 72]. Đó là hình ảnh một cung điện trang hoàng lộng lẫy hiện ra trong giấc mơ của chàng. Trong đó có “một bậc đại phu Nam Việt đương nhí nhởn với một thiếu nữ Chiêm Thành…”, có “viên võ tướng nhảy ùm vào, rút gươm chém đại phu một nhát, ẵm người thiếu nữ, chạy về trại rồi thúc quân đi”, có

“chiêng dồn, trống giục, mác rĩ gươm rền, xung lên giữa giời một tiếng ghê gớm, hỗn độn” [42, 73]. Rồi khung cảnh đó biến mất, chỉ còn “trơ trọi lại giữa quãng đồng không mông quạnh một mình chàng với một cái mạng người hấp hối” [42, 74]. Chàng lại thấy mình lạc vào tiên giới “ở chốn nước non lạ lùng, có những cây dương liễu xanh mướt, có những cái tháp mạnh mẽ, nguy nga, đứng đồ sộ giữa từng không (…) một thiếu nữ, một vị tiên nga, bận toàn màu xanh nhạt, tay cầm một nhánh dương liễu, vừa đu mình vừa hát một khúc hát Chiêm Thành” [42, 74]. Quá khứ và hiện tại, thực và mộng cứ dồn dập hiện lên trong tâm hồn bậc trượng phu mang nỗi đau vong quốc.

Rõ ràng, sự xuất hiện của những không gian ảo trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư phần nào tạo nên sự mới lạ, cuốn hút cho câu chuyện. Đồng thời, nó giúp tác giả biểu đạt một cách lãng mạn những ý tưởng mà không gian cụ thể không thể dung chứa: sự phản kháng, nỗi niềm hoài cổ,…

Một phần của tài liệu đặc điểm truyện ngắn lưu trọng lư (Trang 100 - 119)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(119 trang)