Ngôn t ừ nghệ thuật trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư

Một phần của tài liệu đặc điểm truyện ngắn lưu trọng lư (Trang 94 - 100)

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮN LƯU

3.4. Ngôn t ừ nghệ thuật trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư

Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm văn học là một chuỗi ngôn từ được lựa chọn và tổ chức theo một kí mã thẩm mĩ nhất định của mỗi cá nhân nghệ sĩ. Nó là phương tiện để nhà văn tạo nên những bức tranh sinh động về con người và cuộc sống, đồng thời biểu đạt tư tưởng, tình cảm của mình.

Lưu Trọng Lư là một nhà thơ viết truyện ngắn nên nhiều truyện ngắn của ông giống như những bài thơ triền miên cảm xúc. Ở đó, chúng ta bắt gặp một thứ ngôn từ rất giàu sắc thái biểu cảm, “một ngôn từ thường trực khả năng “lên cơn sốt” cảm xúc với những con sóng tràn bờ” [27, 22].

Đọc truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, chúng ta thấy tác giả thường sử dụng các từ láy để diễn đạt những trạng thái cảm xúc của nhân vật. Ly Tao tuyệt vọng là một ví dụ:

- “Một bầu máu nóng hăm hở ra giúp đời, mà rồi sự nghiệp không thành, đành tiu nghỉu về với cỏ cây non nước”.

- “Cái cuộc đời tuy thanh nhàn thích thảng, nhưng cũng có lúc nhạt phèo vô vị

- “(…) lại thường để lộ ra mình là người chán nản, ê chề… thất vọng”.

- “(…) những ngày lạnh lẽo đìu hiu”.

- “Mặt trăng – cái mặt trăng mùa đông, nặng nề ủ rũ”.

- “(…) một khúc hát du dương, càng nghe càng thấm thía, càng nghe càng thâm trầm”.

- “(…) những cái thanh âm réo rắt như còn theo văng vẳng bên tai, làm cho nhà thơ nghe mà não nuột

- “Tuy nghe có thích thú nhẹ nhàng mà vẫn cảm thấy ghê sợ lạ lùng

- “(…) như có cái gì đến làm cho nhà nho nghĩ ngợi, bâng khuâng, vướng vít”.

- “(…) chàng ngồi đã rũ rượi”.

- “Phan sinh cứ ngồi mê mẩn”.

- “Chàng sẽ lẳng lặng cúi đầu”.

Từ láy là loại từ thuần Việt có khả năng gợi hình, gợi thanh và khả năng biểu cảm rất cao. Khả năng biểu đạt tuyệt vời của loại từ này đã được Lưu Trọng Lư phát huy hiệu quả trong tác phẩm. Chúng không chỉ giúp nhà văn thể hiện chính xác, tinh tế những cảm giác, cảm xúc của nhân vật mà còn tạo ra âm điệu cho câu văn. Chẳng hạn như trong câu văn sau: “Ấy là tiếng rền rĩ của một vùng không gian lạnh lẽo tái tê, hay là tiếng vỡ lở của một con tim âu sầu ủ rũ”. Câu văn ngắn gọn nhưng có tới sáu từ láy với đầy đủ giá trị biểu đạt: vừa gợi được âm thanh (rền rĩ), vừa gợi được hình ảnh (ủ rũ) đặc biệt gợi được rất nhiều cảm giác, cảm xúc (lạnh lẽo, tái tê, âu sầu). Chúng còn đem đến cho câu văn một âm điệu trầm bỗng nhịp nhàng, cân đối, hài hòa. Nó là minh chứng cho việc sử dụng tài tình từ láy của Lưu Trọng Lư.

Hiệu quả biểu cảm to lớn mà các từ láy mang lại cũng được tìm thấy trong Cô bé hái dâu. Trong truyện ngắn này, tác giả đã sử dụng một lớp từ láy đa dạng, phong phú để phô diễn các cung bậc cảm xúc của nhân vật: ngậm ngùi, não nùng, thơ thẩn, bâng khuâng, mơ mộng, mơ màng, hớn hở, tiu nghỉu, dịu dàng, êm ái, thảnh thư, nhẹ nhàng, bồi hồi, say sưa, man mác, bối rối,… Tất cả góp phần dệt nên một bầu cảm xúc bao phủ, lan tỏa khắp câu chuyện.

Kim Lân là nhà văn có biệt tài sử dụng từ láy. Những từ láy được ông sử dụng khéo léo đã tạo được hiểu quả thẩm mỹ to lớn cho những trang viết của mình. Chẳng hạn như trong Vợ nhặt:

- “Một buổi chiều người trong xóm thấy Tràng về cùng một người đàn bà nữa. Mắt hắn có gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai con mắt thì sáng lấp lánh. Hắn cứ lúng túng tay nọ xoa xoa tay vào vai kia đi bên người đàn bà… Lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng”.

- “Ngoài đầu ngõ có người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào… Bà cụ Tứ nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp hỏi:

- Có việc gì thế?

Bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng phấp phỏnghơn” [37, 202-208].

Ở đây, Kim Lân đã thành công trong việc sử dụng các từ láy để vừa có thể gợi tả dáng vẻ vừa có thể bộc lộ rõ các nét tâm trạng, tình cảm của nhân vật. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy trong số các từ láy Kim Lân sử dụng, những từ láy có chức năng gợi hình có số lượng nhiều hơn các từ láy có chức năng gợi cảm. Chính khả năng tạo hình của các từ láy giúp cho diện mạo nhân vật trở nên rõ ràng hơn, tính cách đầy đặn hơn.

Lưu Trọng Lư thì ngược lại. Ông thường sử dụng các từ láy có chức năng gợi cảm nhiều hơn các từ láy có chức năng gợi hình. Điều này phù hợp với thiên hướng tập trung đi sâu miêu tả cảm giác, phô diễn nội tâm của ông.

Vì vậy, nhân vật của ông thường là nhân vật trữ tình. Những cảm giác, cảm xúc bên trong nhân vật thường được miêu tả, thể hiện trực tiếp. Chẳng hạn:

- “Tôi thấy lòng tôi được mơn trớn bởi một mối tình thoảng qua, xa xôi và vô cùng êm dịu… Cái phút sung sướng nhất mà tôi được hưởng từ khi quen nàng. Rồi từ đấy, hễ mỗi khi nàng đưa chỉ ra đan, thì ở trên lầu cao, tôi lại đứng lặng nhìn, say sưa, sung sướng” [42,88].

- “Mùi hương nồng ngát, lan tỏa khắp phòng, chàng thấy ngây ngất, say sưa” [42, 91].

- “Tâm hồn tôi tiu nghỉu, buốn rầu nặng nề” [42, 43].

Như vậy, từ láy thường được Lưu Trọng Lư sử dụng để thể hiện những trạng thái tâm hồn của nhân vật. Với khả năng biểu cảm cao, những từ láy này đã góp phần làm tăng tính trữ tình cho tác phẩm.

Lưu Trọng Lư còn dùng hình thức so sánh để diễn tả cụ thể, sinh động những cảm giác, cảm xúc của nhân vật. Tìm hiểu các hình ảnh so sánh của Lưu Trọng Lư, chúng ta có thể phân thành hai nhóm:

Thứ nhất, đó là một số hình ảnh so sánh gợi liên tưởng mạnh mẽ, nhằm biểu hiện tận cùng cảm xúc nhân vật. Ví dụ như :

- “Nghe giọng đàn tiếng hát, Phan sinh như ngây như dại, như uống một cốc rượu nồng mà thêm một cốc khác, như hút một khói thuốc thơm mà thêm một khói thuốc khác” [42, 41].

- “Chàng chếch choáng như một người say rượu, những tư tưởng trong tâm trí chàng cũng nhảy múa” [42, 91].

- “Phan sinh bây giờ đã như một người điên, điên … vì tình” [42, 41].

- “Nàng cười một mình như một người điên” [42, 93].

Thứ hai, đó là mộ số hình ảnh so sánh gợi cảm giác nhẹ nhàng, thi vị.

Chẳng hạn:

- “Thân chàng như toàn bằng những sợi tơ, một cái dư âm cũng có thể làm rung động cả toàn thể” [42, 41].

- “Tôi đếm từng bước một như đếm các vần thơ” [42, 44]

- “Tôi đi trên một con đường con, theo những rặng tre mà lần bước, thảnh thư nhẹ nhàng như đạp trên làn mây khói” 42, 45].

- “Nhưng một buổi chiều, tôi đã quên nàng như quên một giấc mộng xa”

[42, 119].

- “Tôi không dám tự hỏi tình yêu là gì, mà chỉ nằm lăn như một cánh hoa lạ trên những đầu cỏ mởn, theo một làn gió dịu” [42, 130].

- “Người đàn bà ấy, đối với tôi thể như một cái hoa bất ngờ ở trong bãi sa mạc mênh mông” [42, 138].

Các hình ảnh so sánh của Lưu Trọng Lư rất quen thuộc, gần gũi song tính gợi cảm rất cao. Phải có một tâm hồn vừa nồng nàn cảm xúc vừa nhẹ nhàng tinh tế, tác giả mới có những so sánh thú vị như vậy.

Đọc truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, chúng ta có thể bắt gặp trong đó một lời văn tinh tế, trong sáng và có sức truyền cảm nhẹ nhàng như những vần thơ:

- “Trước mắt tôi thấy diễn ra một cuộc đời êm đềm thanh thú. Tôi tưởng tượng thấy một cô bé xinh xắn tươi cười, mỗi buổi chiều đi vào ruộng dâu, hái những lá dâu xanh. Đêm đến theo điệu bộ nhịp nhàng, nhanh nhẹn, cô bé thái nhỏ những lá dâu rắc vào những cái nong tằm. (…) Cho được có hôm nay, ngồi yên một chỗ dưới bóng trăng trong, cô bé quay những sợi tơ vàng, và mơ tưởng những chuyện xa xôi” [42, 45-46].

- “Hôm ấy giời mưa lơ thơ … Cái vườn hoa của nàng, tôi trông có vẻ tiều tụy hơn mọi ngày, nhưng những đóa cúc trắng vẫn đậm đà thắm tươi như cũ. Bỗng tôi nghe trong nhà vọng đưa ra những tiếng dương cầm. Những tiếng trong trẻo bay qua cửa sổ, và âm thầm tắt ở trong chòm lá xanh. Tôi ngừng bước nhìn những làn cúc, tôi nhìn thấy những làn cúc tự nhiên rung động anh ạ! Và tâm hồn tôi lao đao, tôi muốn ngã. Những hạt mưa nhỏ xuống, ngày càng nặng. Và tôi thấy trong những giọt nước lại cả cái hình ảnh của cảnh vật xung quanh” [42, 118].

Chất thơ đã tỏa ra từ bức tranh thiên nhiên, từ nét sinh hoạt thường nhật và từ chính tâm hồn con người đã tạo nên chiều sâu và sức ngân vang cho những trang viết. Cái âm hưởng trữ tình mượt mà cùng với chất thơ man mác,

bàng bạc đã làm cho những trang viết của Lư có sức lay động và truyền cảm sâu xa. Nó thực sự là một bài thơ văn xuôi với rất nhiều vang hưởng.

Tuy nhiên, tiếp xúc với truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, chúng ta cũng nhận thấy ngôn từ nghệ thuật của ông còn ít nhiều hạn chế. Ở một số trang viết, dấu vết của lối văn biền ngẫu, lối so sánh ước lệ hay cách dùng từ khuôn sáo vẫn tồn tại:

- “Bỗng dưng trong vùng không khí ngưng trệ, vi lô san sát, khóm tre la đà, một ngọn gió nhẹ đưa, đưa lại một giây âm hưởng, tiếng trầm tiếng bổng, tiếng chậm tiếng mau. Tiếng mau như đàn chim vỗ cánh bay cao, tiếng chậm như giọt sương nặng gieo trên tàu lá, tiếng trầm như hòn châu đắm trong bể thẳm, tiếng lên như mây lỏng cuốn theo ngọn gió nồm…” [42, 40].

- “Em đến đây để dâng ông cái … ái tình hèn mọn và thành kính của em đối với một cung đàn, một sự đẹp đẽ, một sự thiêng liêng, một sự màu nhiệm… Em yêu kính ông vì ông là người nửa tiên và nửa tục, làm môi giới cho hai cõi bồng lai và hồng trần. Lại vì ông làm trong trẻo khí trời, lẹ làng hơi đất và sáng suốt lòng người” [42, 55].

Đôi lúc chúng ta có cảm giác tác giả dường như không chế được ngòi bút của mình, ông đã để dòng ngôn từ trôi theo dòng cảm xúc nồng nhiệt của nhân vật. Cho nên có những trang viết mà ở đó ngôn từ trở nên rối rắm giảm đi sự trong sáng, linh hoạt, tự nhiên. Chẳng hạn: “Thực ra cái tình yêu ấy chỉ thoáng qua trong đời tôi mà thôi khi ẩn khi hiện bên lưng tôi, chập chờn như một cái bóng ma. Nhưng người thiếu nữ đã để lại cho tôi cái bóng dễ sợ ấy, anh ạ là một người có nét mặt hiền hành, rất có duyên, rất đẹp mà sao tôi không dám nói ra - Ừ, người đẹp thì đã tôi tình gì? Dầu nàng có làm cho tôi điêu đứng hơn nghìn lần thế nữa tôi cũng không có quyền nói xấu nàng kia mà. Có ai đang tâm nói xấu một người đẹp bao giờ? Huống hồ nàng đối với tôi vẫn không phải là một kẻ thù, dầu vì nàng, có đôi lúc tôi đã khổ não, một

cách âm thầm. Nếu ở trên đời có một người làm cho tôi đau khổ mà tôi vẫn không có uyền oán trách, ấy là nàng vậy. Giá nàng sinh ra là giai nhân, rồi như một đóa hoa quý, nàng nở rồi tàn ở trên cái bờ song hoang rậm của một con song cùng tịch, thì ai còn biết tới nàng, đặt hình ảnh nàng vào một chỗ trong sạch nhất của trái tim. Khốn nỗi, nàng như một ngôi sao, nàng muốn chói lọi, nàng muốn ánh sáng huyền diệu của nàng, từ trên muôn trùng có hình bóng ở dưới muôn nghìn dòng sông lạnh” [42, 109].

Tóm lại, đặc điểm nổi bật của ngôn từ trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư là tính gợi cảm và chất thơ bay bổng của nó. Tuy nhiên, ở đó, dấu vết của lối diễn đạt truyền thống vẫn còn.

Một phần của tài liệu đặc điểm truyện ngắn lưu trọng lư (Trang 94 - 100)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(119 trang)