CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TẠI TỔNG CÔNG TY VẬN TẢI THỦY
2.1 Giới thiệu chung về Tổng công ty vận tải thủy
Ngày 13/8/1996 Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải có quyết định số 2125QĐ/TCCB-LĐ thành lập doanh nghiệp nhà nước- Tổng công ty Đường sông miền Bắc (Tổng công ty 90) trực thuộc Bộ Giao thông vận tải trên cơ sở tách một số đơn vị sản xuất kinh doanh trực thuộc Cục Đường sông Việt Nam và nhận thêm một số doanh nghiệp của địa phương và đơn vị khác. Thực hiện chủ trương sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, Thủ tướng chính phủ có quyết định số 12/2007/QĐ-TTG ngày 24/01/2007 phê duyệt đề án chuyển Tổng công ty Đường sông miền Bắc sang hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải có quyết định số 388/QĐ-BGTVT ngày 27/02/2007 về việc thành lập Công ty mẹ - Tổng công ty Vận tải thủy, trực thuộc Bộ Giao thông vận tải.
Ngay sau hơn một năm thành lập, những định hướng phát triển Tổng Công ty do HĐQT và TGĐ đặt ra ngay từ khi thành lập dần dần đưa vào thực tế cuộc sống trên sông nước đã đặt nền móng cho sự tăng trưởng nhanh và vững chắc trong tương lai của toàn TCT.
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức và quản lý sản xuất, TCT phải đối mặt với nhiều khó khăn, phức tạp trên thương trường vận tải lẫn quan điểm chưa thống nhất ngay trong nội bộ TCT và các doanh nghiệp. Hơn nữa, suốt hơn mười năm qua, cơ chế thị trường đã tác động mạnh đến hoạt động vận tải sông , nhiều doanh nghiệp tư nhân ra đời đầu tư vốn liếng, đóng mới nhiều loại phương tiện cạnh tranh quyết liệt với đội tàu sông của TCT. Trong lúc khối lượng hàng hóa vận chuyển giảm sút thì từ đầu năm 1999, Nhà nước áp dụng luật thuế giá trị gia tăng. Tám tháng đầu năm, vận tải phải chịu thuế suất 10%, đến tháng 9 năm 1999 mới giảm còn 5%. Điều này gây cú sốc đối với cả chủ hàng lẫn người vận tải nhưng thua thiệt nhất vẫn là người
vận tải vì giá cước không tăng. Có thể nhận định rằng, đây là những thời điểm khó khăn tác động xấu đến quá trình sản xuất, khai thác đội tàu của toàn TCT. Trước xu thế giành lại ảnh hưởng trên thị trường vận tải sông thể hiện rõ rệt ở khâu vận chuyển than, TCT nỗ lực tập trung sức lực và trí tuệ để tìm cách tháo gỡ khó khăn cho các thành viên. Đồng thời, thêm quyết tâm đa dạng hóa đội hình vận tải, bến bãi,đa dạng hóa mặt hàng vận chuyển, đáp ứng các yêu cầu của chủ hàng về phương thức giao nhận hàng, đảm bảo an toàn giao thông và kiên quyết loại bỏ hiện tượng tiêu cực trong vận tải.
Những cố gắng của toàn TCT đã mang lại hiệu quả đáng mừng là năm 2000, 2001 và 2002, sản lượng vận tải ổn định trong mấy năm liền, ở mức bình quân 3.65 triệu tấn/năm rồi tăng vụt lên từ năm 2003 với sản lượng hơn 4,1 triệu tấn, năm 2004 lại tăng lên 6,18 triệu tấn và năm 2005 đạt hơn 7,0 triệu tấn.
Ngoài mặt hàng than, điện, đạm, các đơn vị vận tải chủ động khai thác và tổ chức vận chuyển các mặt hàng khác như than chuyển tải từ mỏ ra khu vực Hòn Nét (Hạ Long) xuất khẩu, khai thác các loại hàng clinke, hàng bao, hàng nặng, hàng cồng kềnh và vật liệu xây dựng. Nhưng riêng mặt hàng container tuyến ngắn từ Cửa Dứa – Hạ Long về cảng Cảng Cái Lân, cảng Hải Phòng do hai công ty vận tải 1 và 4 khai thác, tổ chức thực hiện đã tăng sản lượng vận tải rất lớn. Năm 2004, hai công ty đạt 1,5 triệu tấn tăng 134% so với năm 2003. Nhiều đoàn tàu đạt 3-4 chuyến/
tháng. Đến năm 2005 , TCT tiếp tục thực hiện các hợp đồng kết với các ngành than, điện với nhu cầu tăng so với năm 2004. Ngoài ra các doanh nghiệp vận tải cũng tăng cường khai thác và vận chuyển nhiều loại hàng với tổng số đạt 3,7 triệu tấn.
Khối lượng này bằng sản lượng hàng hóa cả TCT vận chuyển trong năm 1997, hơn hẳn các năm 1998,1999. Nhờ các đơn vị vận tải đạt sản lượng và doanh thu tăng so với năm 2004 nên toàn TCT đã vận chuyển được 7 triệu tấn hàng.
Năm 2006, tất cả các công ty vận tải thủy đã chính thức hoạt động theo mô hình công ty mẹ - Công ty con, TCT có những bước chuyển mạnh về cơ cấu tổ chức giữa lúc thị trường có nhiều diễn biến phức tạp nhưng các chỉ tiêu về kinh tế kỹ thuật vẫn tăng lên.
Thành tích vượt bậc đạt được trong vận tải từ năm 2000 trở lại đây cho thấy sự
thống nhất đường lối và cách tiến hành phù hợp với từng giai đoạn đã tạo cho các doanh nghiệp vận tải thành viên khả năng tổ chức sản xuất, phát huy hết năng lực, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn vốn để từng bước ổn định sản xuất kinh doanh, sau đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng bằng các loại hình kinh doanh đa dạng, đa sản phẩm.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức
2.1.2.1 Sơ đồ cơ cấu tổ chức
Tổng công ty vận tải thủy có 4 phòng ban chức năng, 12 đơn vị trực thuộc, 6 công ty con và 3 công ty liên kết.
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ mô hình tổ chức của Tổng công ty vận tải thủy
Bốn phòng ban chức năng của công ty gồm có:
Phòng Kinh doanh
Phòng Tài chính kế toán
Phòng Khoa học kỹ thuật và hợp tác quốc tế
Văn phòng tổng hợp
Hội đồng quản trị Hội đồng
quản trị
4 phòng ban chức năng 4 phòng ban
chức năng
12 đơn vị trực thuộc công ty
mẹ 12 đơn vị trực
thuộc công ty mẹ
6 công ty con
6 công ty con 3 công ty liên 3 công ty liên kết
kết Tổng giám đốc
Tổng giám đốc Ban kiểm soátBan kiểm soát
Mười hai đơn vị trực thuộc công ty mẹ gồm có:
Cảng Hà Nội
Cảng Việt Trì
Công ty Xây lắp và tư vấn thiết kế
Công ty Nhân lực và thương mại quốc tế
Công ty Đầu tư và Xây dựng Hồng Hà
Trung tâm vận tải – đại lý dịch vụ và vận tải
Chi nhánh TCT Vận tải thủy tại Quảng Ninh
Chi nhánh TCT Vận tải thủy tại Hòa Bình – Cảng Bích Hạ
Trường dạy nghề GTVT thủy
Công ty đóng tàu và vận tải Kim Sơn
Chi nhánh TCT Vận tải thủy tại TP Hồ Chí Minh
Công ty vật tư kỹ thuật và xây dựng công trình đường thủy
Các công ty con:
Công ty CP Vận tải thủy 1
Công ty CP Vận tải thủy 2
Công ty CP Vận tải thủy 3
Công ty CP Vận tải thủy 4
Công ty CP Cảng Hà Bắc
Công ty CP VTT Thái Bình
Các công ty liên kết:
Công ty CP vận tải thủy Nam Định
Công ty CP cơ khí 75
Công ty vận tải và cơ khí đường thủy
2.1.3 Hoạt động sản xuất kinh doanh chính của Tổng công ty vận tải thủy
a) Sản xuất vận tải: Duy trì mối quan hệ với các bạn hàng truyền thống theo phương châm hợp tác – tin tưởng – đôi bên cùng có lợi, chấp nhận cạnh tranh bằng việc nâng cao chất lượng phục vụ, giá cả phù hợp, tích cực khai thác thêm các mặt hàng mới, tuyến mới như hàng nặng, container tuyến ngắn, clanke, hàng qua Cảng Hải Phòng, vật liệu xây dựng phục vụ nhà máy thủy điện Sơn La… Để hạn chế ách tắc phương tiện tại các đầu bến, nâng cao năng suất phương tiện, hạ giá thành vận tải, TCT đã xây dựng phương án vận chuyển, điều hành phương tiện hợp lý, chạy tàu nhanh, tiết kiệm chi phí và giảm hao hụt hàng hóa. Do tổ chức sản xuất có hiệu quả nên từ năm 2000 đến nay liên tục được Tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam tín nhiệm ủy quyền cho TCT tổ chức điều hành vận chuyển than điện, than đạm, than xi măng. Do được chủ động điều hành, tổ chức phối kết hợp tốt với chủ hàng trong giao nhận và xếp dỡ hàng ở hai đầu bến, điều tiết phương tiện vận tải hợp lý – duy trì kỷ cương điều hành chung nen năng suất vận tải nói chung và năng suất than điện, than đạm nói riêng tăng khá cao, năng suất bình quân đạt trên 2 chuyến/tháng, có nhiều đoàn tàu đã đạt năng suất 3-4 chuyến/tháng. Điều này khẳng định việc điều hành phương tiện tập trung của TCT và các đơn vị thành viên là hoàn toàn đúng đắn và hợp với quy luật phát triển.
b) Sản xuất cảng sông: Ngoài việc nâng cao chất lượng phục vụ, cân đối giảm giá thành, bốc xếp hợp lý, tận dụng lợi thế mở thêm các dịch vụ kinh doanh, xăng dầu, than, khai thác hiệu quả kho bãi để giải quyết việc làm tăng thu. Các Cảng còn mở thêm các điểm bốc xếp vệ tinh, đầu tư, nâng cấp kho, bãi, do đó thu hút được nhiều mặt hàng mới như: Sô đa của Cảng Hà Bắc, Xỉ pirit, đá trắng xuất khẩu của Cảng Việt Trì, Vật liệu xây dựng phục vụ xây dựng Nhà máy thủy điện Sơn La của Cảng Hòa Bình…Vì vậy, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng các đơn vị Cảng vẫn lo đủ hàng bốc xếp có doanh thu năm sau cao hơn năm trước, các đơn vị thực sự khó khăn đã ổn định sản xuất và có tăng trưởng.
c) Sản xuất cơ khí: Thời gian qua là sự thử thách lớn đối với các đơn vị cơ
khí, do nhu cầu sản xuất thấp nhưng đòi hỏi công nghệ cao, trong khi đó hầu hết các đơn vị cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, chưa tìm được đầu ra cho các sản phẩm.
Trước tình hình đó các đơn vị đã mở rộng thị trường, làm tốt công tác tiếp thị, nâng cao chất lượng, có cơ chế hợp lý, tìm mua vật tư giá rẻ để hạ giá thành sản phẩm, đầu tư đúng hướng, có hiệu quả. Kết qủa là đã tìm được sản phẩm thích hợp, tạo được việc làm, doanh thu tăng cao. Công ty cơ khí 75, Công ty vật tư kỹ thuật và công trình đường thủy, các nhà máy sửa chữa phương tiện thủy có thời điểm phải tăng ca và thuê lao động ở các đơn vị khác mới đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, đời sống được cải thiện, mua sắm thêm phương tiện, thiết bị và nâng cấp cơ sở vật chất, tạo được lòng tin trong CBCNV và khẳng định được thương hiệu của mình trên thương trường.
d) Sản xuất xây dựng cơ bản: Đây là nghề mới, được mở ra từ năm 2002 để thực hiện chiến lược đa ngành – đa nghề của Tổng công ty, trong khi các đơn vị xây dựng cơ bản trong ngành đang gặp rất nhiều khó khăn về tài chính, việc làm thì các đơn vị của TCT đã có tư duy mới trong việc mở rộng thị trường – quy mô sản xuất – đa dạng hóa ngành nghề tạo ra sự đột biến trong sản xuất kinh doanh. Ngoài việc thực hiện các phần việc trong nội bộ TCT đã vươn ra thị trường các tỉnh trong cả nước – tham gia đấu thầu và đã trúng thầu nhiều công trình có giá trị lớn, khẳng định vị thế của mình trên thương trường.
e) Sản xuất dịch vụ: Không chỉ quan tâm chỉ đạo các mặt sản xuất chính, các đơn vị thành viên còn chú trọng đến việc mở rộng các ngành nghề dịch vụ để tăng thêm việc làm, tăng thu như: kinh doanh xi măng, xăng dầu, than, xây dựng cơ bản, xuất khẩu lao động, kinh doanh bến xe… Doanh thu từ các dịch vụ này trong những năm đầu chỉ chiếm 15 -20% đến nay đã tăng lên 40 – 45% tổng doanh thu toàn TCT hàng năm.