Những điểm còn hạn chế

Một phần của tài liệu Quản lý đội ngũ chuyên viên tại đại học quốc gia hà nội (Trang 63 - 68)

Chương 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ CHUYÊN VIÊN TẠI ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

3.3. Đánh giá về quản lý đội ngũ chuyên viên tại Đại học Quốc gia Hà Nội

3.3.2. Những điểm còn hạn chế

1. Đội ngũ chuyên viên thiếu đồng bộ về cơ cấu chuyên môn, trình độ, lứa tuổi và phân bố không đều giữa các đơn vị, lĩnh vực, ngành học.

2. Trong khi đó, đội ngũ chuyên viên trẻ chưa đủ điều kiện kế tục và gánh vác trách nhiệm của đội ngũ chuyên viên. Thực trạng này dẫn tới “sự hẫng hụt đội ngũ”

về thế hệ, sự “khủng hoảng” về đội ngũ chuyên viên, đầu ngành ở hầu hết các cơ sở đào tạo và NCKH đang trở nên gay gắt, đặc biệt là đối với một số ngành công nghệ cao,kinh tế, xã hội mũi nhọn; độ tuổi bình quân của chuyên viên đầu đàn, đầu ngành cao, nhất là đối với các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Một số lượng đáng kể chuyên viên chưa thường xuyên được cập nhật thông tin về KH&CN hiện đại, ít có cơ hội được ĐT tham gia NCKH, trình độ ngoại ngữ, tin học của chuyên viên còn hạn chế; nhiều chuyên viên chưa đủ năng lực biên soạn giáo trình điện tử và làm việc, vì vậy năng lực và trình độ còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng, NCKH của ĐHQGHN. Số lượng chuyên viên là nữ ngày càng

ít. Số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức không tương xứng với quy mô và lĩnh vực đào tạo, NCKH của ĐHQGHN.

3. Cơ chế, chính sách tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ chuyên viên chưa phù hợp với sự chuyển đổi nền kinh tế và nền giáo dục đại học trong thời kỳ đổi mới toàn diện. Do đó, việc tuyển dụng và sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng chuyên viên đang gặp nhiều khó khăn. Tình trạng “chảy máu chất xám” đang diễn ra trong các cơ sở đào tạo và nghiên cứu, làm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển mọi mặt của ĐHQGHN.

4. Số lượng chuyên viên đạt trình độ hội nhập quốc tế còn thấp hơn nhiều so với các trường đại học tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Một số chuyên viên kiêm giảng viên thỉnh giảng vẫn thiếu các phương pháp giảng dạy tiên tiến và các phương pháp nghiên cứu hiện đại, trình độ ngoại ngữ chưa đáp ứng yêu cầu nên gặp khó khăn trong đổi mới và tiếp cận các chuẩn quốc tế, hạn chế trong quá trình hội nhập.

5. Một số các cán bộ lãnh đạo, quản lý trưởng thành từ chuyên môn, không được đào tạo về quản lý, đặc biệt về quản trị ĐH tiên tiến. Công tác quản lý và hỗ trợ ĐT-BD cho lực lượng nghiên cứu KH&CN đạt hiệu quả chưa cao, tính quy hoạch, kế hoạch ở một số đơn vị thuộc ĐHQGHN còn chưa đáp ứng yêu cầu, văn hóa chất lượng chưa được hình thành rõ rệt. Việc bồi dưỡng khả năng chuyên môn thông qua các hoạt động giao lưu khoa học, học tập trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, tham gia các chương trình liên kết đào tạo với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới chưa được chú trọng đúng mức.

Xin trích dẫn kết quả trả lời cuộc phỏng vấn của một số cán bộ làm công tác quản lý về ĐT-BD:

Một số ý kiến nhận xét về ĐT-BD cán bộ chuyên viên làm việc

“Vấn đề quản lý ĐT-BD còn nhiều bất cập. Các đơn vị mạnh ai nấy làm.

Các cán bộ cũng tự đăng ký học, nhiều khi tự bỏ tiền và không xin ý kiến của tổ chức. Không có một kế hoạch, chiến lược tổng thể. Bản thân chúng tôi cũng chỉ quản lý được các nội dung ĐT-BD cán bộ do ĐHQGHN cấp kinh phí”

(Nam, 29 tuổi, ThS, chuyên viên chuyên trách TCCB).

“Tôi nghĩ cần phải xem xét xem thế nào là 1 khóa ĐT-BD có chất lượng.

Tôi thấy nhiều khi mình cứ tổ chức, xong bao nhiêu người đến không cần biết, học viên học được cái gì không cần biết. Tôi thấy nhiều nơi họ có phát phiếu xin feedback của học viên, đó là một cách hay”

(Nữ, 32 tuổi, ĐH, chuyên viênchuyên ngành Khoa học quản lý, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn).

“Chỉ có ở Việt Nam mới có CV không có trình độ ThS. Theo quan sát của tôi, chuyên viên trong các ĐH tiên tiến như ở Mỹ, Nhật, Châu Âu tối thiểu phải có trình độ ThS. Cho nên chả bao giờ thấy họ tính số lượng chuyên viên có trình độ ThS là bao nhiêu cả, tỷ lệ này đương nhiên là 100% rồi.”

(Nam, 48 tuổi, Ths, chuyên viên kiêm nhiệm cán bộ quản lý)

“Một loạt những cán bộ chuyên viên xuất sắc và cán bộ trẻ được chúng tôi gửi đi học sau ĐH ở nước ngoài đã không về đơn vị mà đã tìm cách ở lại hoặc nếu về nước thì lại chuyển sang làm doanh nghiệp. Chúng tôi thực sự lo ngại vì 2-5 năm nữa thôi nhiều đơn vị sẽ không có nhân sự đủ khả năng để đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo khi lứa chúng tôi về hưu hết”

* Nguyên nhân của những hạn chế trên

Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của ĐHQGHN trong hoạt động vẫn còn hạn chế so với tính tự trị ĐH quốc tế cũng như so với yêu cầu của chính ĐHQGHN;

cơ cấu của đại học đa ngành, đa lĩnh vực chưa hoàn chỉnh (thiếu các lĩnh vực về y tế, văn hóa, thể thao, nghệ thuật ....), cơ cấu hoạt động thiếu cân đối (đơn vị nghiên cứu, dịch vụ sản xuất - chế tạo thử nghiệm còn ít); điều kiện làm việc của chuyên viên còn nhiều khó khăn.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ làm việc, thư viện, hệ thống phòng làm việc, phòng thí nghiệm, xưởng thực hành, vườn ươm thực nghiệm … còn thiếu chưa thực sự đáp ứng đầy đủ, kịp thời yêu cầu môi trường làm việc.

Nguồn lực tài chính và cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu hỗ trợ hiệu quả cho các hoạt động nghiên cứu và làm việc độc lập theo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. nguồn lực tài chính không dồi dào, chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước.

Phần lớn các trường ĐH thành viên (mặc dù đã được tự chủ, tự chịu trách nhiệm) chưa có kế hoạch đào tạo dài hạn, thiếu chủ động và chưa biết tận dụng thời cơ. Đa phần các khóa bồi dưỡng vẫn mang nặng tính hình thức và bằng cấp, chưa chú trọng bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp và năng lực chuyên môn.

Đội ngũ cán bộ chuyên viên làm việc tại ĐHQGHN còn thiếu đồng bộ về cơ cấu chuyên môn, trình độ, lứa tuổi và phân bố không đều giữa các đơn vị, lĩnh vực, ngành học v.v..., đặc biệt nếu so với tỷ lệ chuyên viên cơ hữu tại các trường ĐH, đơn vị có uy tín trên thế giới thì tỷ lệ chuyên viên có trình độ ThS trở lên ở ĐHQGHN còn tương đối thấp.

Dưới đây là bảng tổng hợp ý kiến đánh giá

Bảng 3.8. Tổng hợp ý kiến đánh giá về năng lực và tiêu chuẩn/tiêu chí của đội ngũ chuyên viên có khả năng hội nhập quốc tế

TT

Năng lực và tiêu chuẩn/tiêu chí của đội ngũ chuyên viên có khả năng hội nhập quốc tế

Mức độ đánh giá Rất

cần thiết Cần thiết Ít cần thiết Không cần thiết

SL % SL % SL % SL %

I Năng lực

1. Có khả năng thuyết trình soạn thảo

văn bản chuyên môn bằng ngoại ngữ 34 35,4 60 62,5 2 2,1 6 0 2. Có phương pháp làm việc khoa học

tiên tiến 39 40,6 38 39,6 17 17,7 6 2,1

3. Có kiến thức, kỹ năng đạt

chuẩn quốc tế 23 24,0 54 56,3 17 17,7 6 2,0

4.

Có mối quan hệ giao tiếp, hợp tác với các trường đại học tiên tiến trên thế giới

24 24,0 40 41,7 30 31,3 6 3,0 II Tiêu chuẩn/Tiêu chí

1. Tốt nghiệp đại học trở lên 49 45,0 29 35,0 18 15,0 4 5,0 2. Thành thạo tin học văn phòng 49 45,0 29 35,0 18 15,0 4 5,0 3. Đánh giá số lượng công việc thực hiện

của chuyên viên phụ thuộc vào khả năng chủ động, sáng tạo của chuyên

49 45,0 29 35,0 18 15,0 4 5,0

TT

Năng lực và tiêu chuẩn/tiêu chí của đội ngũ chuyên viên có khả năng hội nhập quốc tế

Mức độ đánh giá Rất

cần thiết Cần thiết Ít cần thiết Không cần thiết

SL % SL % SL % SL %

viên

Qua số liệu phân tích và đánh giá tại các bảng tổng hợp ý kiến về việc quản lý đội ngũ chuyên viên theo các chỉ tiêu, năng lực, tiêu chuẩn và tiêu chí, chúng tôi nhận thấy mức độ đạt được về các chỉ tiêu còn rất thấp (chưa đến 35%), các tiêu chuẩn/tiêu chí đặt ra cho đội ngũ chuyên viên có khả năng đạt chuẩn quốc tế thường được đánh giá là cần thiết và rất cần thiết nhưng có tỷ lệ chưa cao, chưa có tiêu chuẩn/tiêu chí nào được đánh giá đạt được từ 65% trở lên, một số ý kiến lại cho rằng không cần thiết.

Chương 4

Một phần của tài liệu Quản lý đội ngũ chuyên viên tại đại học quốc gia hà nội (Trang 63 - 68)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(100 trang)
w