Chương 4. ĐỀ TÀI THÔN QUÊ TRONG THƠ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN
4.2. Ngôn ngữ nghệ thuật
4.2.2. Ngôn ngữ văn học dân gian gắn với đời sống thôn quê
Theo tiến trình phát triển của ngôn ngữ thơ Đường luật Nôm và Đường luật Hán trung đại Việt Nam, chúng ta thấy các thi nhân có sự tiếp thu chọn lọc và sáng tạo theo hướng dân tộc hóa để tạo nên một di sản thơ ca mang tâm hồn Việt. Vốn ngôn ngữ ngoại nhập dần dần được thay thế và được dân tộc hóa để gần gũi với nếp cảm, nếp nghĩ của người Việt. Cũng theo đó, lớp ngôn ngữ thuần Việt vốn tiềm tàng phát triển hàng nghìn năm sau mỗi lũy tre làng vẫn luôn được lưu giữ, không bị Bắc thuộc đồng hóa. Điều đó cũng khẳng định vị trí quan trọng của ngôn ngữ dân tộc trong văn học:
“Thành phần ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ đời sống ngày một gia tăng, thành phần ngôn ngữ ngoại nhập và ngôn ngữ sách vở ngày một thuyên giảm. Điều đó chứng tỏ thành phần ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ đời sống có đủ khả năng phản ánh và thẩm mỹ - để thay thế dần thành phần ngôn ngữ ngoại nhập và ngôn ngữ sách vở” [171, tr.202]. Phải tìm về những thi phẩm viết về thôn quê, người đọc thế hệ sau mới có thể được thưởng ngoạn vốn ngôn ngữ bình dị, trong sáng mà sinh động của cha ông ta thủa trước.
Bên cạnh ngôn ngữ ngoại nhập, ngôn ngữ văn học dân tộc là một yếu tố cơ bản tạo nên giá trị đặc sắc của thơ ca trung đại. Khi viết về thôn quê, các thi nhân trung đại đã vận dụng và phát huy ngôn ngữ dân tộc một cách tinh tế. Bộ phận ngôn ngữ văn học dân tộc được thể hiện ở hai thành tố là ngôn ngữ văn học dân gian và ngôn ngữ đời sống hàng ngày của đông đảo quần chúng nhân dân. Trong đó, thơ Nôm Đường luật vận dụng ngôn ngữ dân tộc chiếm ưu thế hơn so với thơ chữ Hán Đường luật. Do chữ Nôm ghi âm tiếng Việt nên thơ Nôm Đường luật có thể phản ánh mọi vấn đề của đời
sống xã hội, con người, nhất là những điều bình dị. Chất liệu của thơ Nôm được chưng cất từ chính cuộc sống đời thường dân dã, có khả năng diễn tả các cung bậc cảm xúc của con người cũng như tên gọi của cây cối, vạn vật ở thôn quê làng Việt.
Văn học dân gian là kết tinh trí tuệ và tâm hồn của cha ông ta thuở trước. Văn học viết đã kế thừa và phát huy những giá trị tinh hoa đó để tạo nên các tác phẩm mang hơi thở sâu lắng của tiếng cha ông: “Về ngôn ngữ diễn đạt, khi nói tới tính dân tộc, người ta thường quan tâm tới yếu tố bình dân, thông tục của nó... là lời ăn tiếng nói của người Việt Nam, là những lời nôm na, dân tục hàng ngày. Trước hết, đó là việc vận dụng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca vào thơ ca” [68, tr.447]. Ngôn ngữ văn học dân gian được kế thừa và phát huy trong văn học viết đã khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của ngôn ngữ dân tộc. Chính vì vậy, thơ Nôm Đường luật mang phong vị đậm đà tinh thần dân tộc, dân dã mà thơ chữ Hán nhiều khi không có được. Thành ngữ, tục ngữ là một bộ phận quan trọng của tiếng Việt, thể hiện những đặc trưng văn hoá, tư duy của cha ông nhiều thế hệ trước. Các thi nhân trung đại vận dụng những yếu tố này trong văn học viết tạo nên vẻ đẹp tiềm tàng, đậm đà tinh thần dân tộc.
QÂTT là tập thơ Nôm đầu tiên đánh dấu sự hiện diện của ngôn ngữ dân tộc trong văn học nhà nho. Nhiều quán ngữ, thành ngữ, tục ngữ, ca dao được dùng khá linh hoạt, như: đôi ba khóm, sừng qua tai, quanh co ruột ốc, nên thợ nên thầy, no ăn no mặc… Đó là thứ ngôn ngữ của người lao động được thi nhân chọn lọc để biểu đạt những nội dung mang tính triết lý, giáo huấn. Ngoài ra, thi nhân cũng sáng tạo thành ngữ, tục ngữ trong việc thể hiện cuộc sống thôn quê thanh đạm qua việc vận dụng câu tục ngữ
“Ăn lấy chắc, mặc lấy bền”:
Bữa ăn dầu có dưa muối, Áo mặc nài chi gấm là.
(Ngôn chí, 3) Cơm ăn chẳng quản dưa muối, Áo mặc nài chi gấm thêu.
(Thuật hứng, 22)
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phát huy những thành tựu từ Nguyễn Trãi để
khẳng định vai trò, vị trí của ngôn ngữ văn học dân gian đối với văn học viết của dân tộc. BVQNTT có sự xuất hiện dày đặc các câu thành ngữ, tục ngữ nhằm biểu đạt triết lý của nhà nho: “Ông giữ nguyên hoặc biến hóa những câu tục ngữ, thành ngữ để thích nghi một cách tự nhiên vào lời thơ của mình, tạo nên nhịp điệu vững chắc của câu thơ và tính chất phác, khỏe mạnh của hình tượng thơ” [154, tr.307]. Bạch Vân cư sĩ đề cao cuộc sống thuận theo tự nhiên, gắn bó gần gũi với thôn quê, đây là triết lý sống của nhiều nhà nho trung đại:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
(Thơ Nôm, bài 79)
Tư tưởng quay trở về sống hòa mình với thôn quê với những thú vui dân dã của Trạng Trình có sự gặp gỡ trong tư tưởng dân gian:
Rủ nhau ra tắm hồ sen
Nước trong bóng mát, hương chen cạnh mình.
Cứ chi vườn ngọc, ao quỳnh Thôn quê vẫn thú hữu tình xưa nay.
(Ca dao)
Trong khi đó, Đặng Huy Trứ bày tỏ lòng trăn trở và cảm thông trước những vất vả cơ cực của người dân để có được thành quả lao động. Đặc biệt, thi nhân vận dụng ý nghĩa của ca dao dân gian vào thơ chữ Hán. Bài thơ Đối phạn (Trước bát cơm) có câu kết đầy ý nghĩa:
Canh phu diệp phụ tương đề tỉnh, Thường tận toan tân thủy đắc lai.
(Người thợ cày, chị thợ cấy luôn nhắc nhở, Nếm bao đắng cay mới có bát cơm này) Đó là điểm gặp gỡ với câu ca dao:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần
Đối với các thi nhân thế kỉ XIX, thơ không chỉ là địa hạt của tư tưởng, cảm xúc mà còn là nơi thể hiện những lo lắng thường nhật, những chi li đong đếm trong cuộc sống của người dân quê. Nguyễn Khuyến dùng thành ngữ “lãi mẹ đẻ lãi con” để viết câu thơ thất ngôn về cuộc sống thôn quê với
những bộn bề lo toan của nhà nông. Chất thơ ở đây gần hơn với hiện thực cuộc sống:
Lãi mẹ, lãi con, sinh đẻ mãi,
Chục năm, chục bảy, tính nhiều sao.
(Than nợ)
Như vậy, ngôn ngữ văn học dân gian là tiếng nói chung của cộng đồng, của dân tộc, là bộ phận ngôn ngữ kết tinh từ cuộc sống dân quê đã trở thành một bộ phận ngôn ngữ của văn học viết. Những thành tựu của văn học dân gian đã đem đến cho thơ Đường luật Nôm phong vị dân dã, quen thuộc trong việc biểu đạt cảm xúc về thiên nhiên và cuộc sống con người thôn quê. Viết về đề tài thôn quê, các thi nhân vận dụng ngôn ngữ văn học dân gian như một cách khẳng định giá trị ngôn ngữ quần chúng nhân dân lao động và khẳng định vị thế của ngôn ngữ ca dao, tục ngữ đối với văn học viết. Điều đó cũng cho thấy, ngôn ngữ văn học dân tộc có đủ khả năng diễn tả mọi cung bậc cảm xúc phong phú và tinh tế của con người.