CHƯƠNG 2. LÝ LUẬN NHẬN THỨC VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
II. NỘI DUNG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
2. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
- Khái niệm là hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những mối liên hệ, thuộc tính bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật, hiện tượng nào đó. Do đó, khái niệm là vật liệu tạo nên ý thức, tư tưởng; là phương tiện để tích lũy thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức với nhau66;
- Phạm trù là khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng thuộc một lĩnh vực hiện thực nhất định. Các phạm trù của triết học và phép biện chứng duy vật như vật chất, ý thức;
chất, lượng, mâu thuẫn, nguyên nhân, kết quả, khả năng, hiện thực v.v là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản nhất của toàn bộ thế giới hiện thực (trong tự nhiên, xã hội và tư duy)67.
- Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật là sự lý luận hóa một số mối liên hệ phổ biến cơ bản trong quá trình hoạt động của con người. Thế giới khách quan tồn tại trong sự vận động, liên hệ, chuyển hoá lẫn nhau nên các phạm trù phản ánh cũng vận động, phát triển, bổ sung để đáp ứng nhu cầu phản ánh đúng và đủ các sự vật, hiện tượng của thế giới đó. Mối liên hệ giữa các phạm trù của các khoa học chuyên ngành với các phạm trù của phép biện chứng duy vật là mối quan hệ giữa cái chung với cái riêng;
- Nếu các cặp phạm trù cái chung-cái riêng, tất nhiên-ngẫu nhiên; bản chất-hiện tượng là cơ sở phương pháp luận của các phương pháp phân tích-tổng hợp; diễn dịch- quy nạp; khái quát hoá, trừu tượng hoá để từ đó nhận thức được toàn bộ các mối liên hệ theo hệ thống; còn các cặp phạm trù nguyên nhân-kết quả; khả năng-hiện thực là cơ sở phương pháp luận chỉ ra các mối liên hệ và sự phát triển của sự vật, hiện tượng là một quá trình tự nhiên thì cặp phạm trù nội dung-hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa dạng của các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn.
a. Cái riêng và cái chung, cái đơn nhất (cùng với các cặp phạm trù tất nhiên- ngẫu nhiên; bản chất-hiện tượng) tạo nên cơ sở phương pháp luận cho các phương pháp phân tích và tổng hợp; diễn dịch và quy nạp; khái quát hoá và trừu tượng hoá để từ đó nhận thức được toàn bộ các mối liên hệ theo hệ thống;
- Định nghĩa. Cái riêng (cái đặc thù) là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng riêng lẻ nhất định. Cái chung (cái phổ biến) là phạm trù dùng để chỉ những mặt,
65 V.I.Lênin: Toàn tập, 2005, t.42, tr.364
66 Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh:
Giáo trình triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.355
67 Hội đồng Trung ương ... : Sđd, tr.233-234
những thuộc tính chung không những có ở một sự vật, hiện tượng nhất định mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng khác nữa. Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính chỉ có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng khác.
- Mối liên hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung, cái đơn nhất và ý nghĩa phương pháp luận của nó
+ Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng cho nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, trong các sự vật, hiện tượng cụ thể
+ Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái chung là cái bản chất chi phối cái riêng, nên phải biết phát hiện ra cái chung, vận dụng cái chung để tạo ra cái riêng. Từ điều này rút ra kết luận là bất kỳ một cái chung nào khi được áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hoá
+ Cái chung là một bộ phận của cái riêng, còn do cái riêng không gia nhập hết vào cái chung nên để giải quyết hiệu quả các vấn đề riêng thì cần giải quyết những vấn đề chung, nghĩa là phải giải quyết những vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề riêng đó để tránh sa vào tình trạng mò mẫm, tuỳ tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa
+ Trong những điều kiện nhất định, cái đơn nhất có thể chuyển hoá thành cái chung và ngược lại cái chung có thể chuyển hoá thành cái đơn nhất, nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, nếu cái đơn nhất có lợi thì tạo điều kiện để nó chuyển hoá thành cái chung và ngược lại, nếu cái chung không còn là cái phù hợp thì tác động để cái chung chuyển hoá thành cái riêng.
b. Nguyên nhân-kết quả
Cùng với cặp phạm trù khả năng-hiện thực, cặp phạm trù nguyên nhân-kết quả là cơ sở phương pháp luận chỉ ra các mối liên hệ và sự phát triển của sự vật, hiện tượng là một quá trình tự nhiên;
- Định nghĩa. Nguyên nhân là sự tương tác giữa các mặt trong sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định. Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tác động của các yếu tố thuộc nguyên nhân.
- Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, phổ biến và tất yếu + tính khách quan của mối liên hệ nhân quả
+ tính phổ biến của mối liên hệ nhân quả + tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả
- Mối liên hệ biện chứng giữa nguyên nhân với kết quả và ý nghĩa phương pháp luận của nó;
+ Nguyên nhân sinh ra (nguyên nhân có trước kết quả trong tính liên tục và kế tiếp nhau về thời gian) và quy định kết quả;
+ Tùy thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể, cùng một nguyên nhân có thể gây nên nhiều kết quả khác nhau; ngược lại, một kết quả có thể được gây nên bởi những nguyên nhân khác nhau;
+ Tùy theo hướng tác động của các nguyên nhân lên sự vật, hiện tượng mà hiệu quả tác động của từng nguyên nhân tới sự hình thành kết quả sẽ cùng hoặc ngược chiều;
+ Cần tìm nguyên nhân trong những mặt, những sự kiện, những mối liên hệ đã xẩy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện; vì một hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra nên cần xác định nguyên nhân nào đã sinh ra hiện tượng.
- Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, có thể phân loại các nguyên nhân thành
+ Nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà thiếu chúng thì không thể có kết quả;
nguyên nhân thứ yếu là nguyên nhân chỉ quy định những đặc điểm nhất thời, không ổn định, cá biệt của sự vật, hiện tượng
+ Nguyên nhân bên trong là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt hay các yếu tố của cùng một kết cấu vật chất gây ra những biến đổi nhất định; Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động lẫn nhau giữa các kết cấu vật chất khác nhau gây ra những biến đổi tương ứng trong các kết cấu vật chất ấy. Nguyên nhân bên trong quy định nguyên nhân bên ngoài trong việc hình thành, tồn tại và phát triển của các kết cấu vật chất; nguyên nhân bên trong chỉ phát huy tác dụng thông qua nguyên nhân bên trong
+ Nguyên nhân khách quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động độc lập với ý thức con người; nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động phụ thuộc vào ý thức con người
- Kết quả tác động trở lại, có ảnh hưởng ngược lại đối với nguyên nhân
- Giữa nguyên nhân với kết quả, vị trí có thể thay đổi cho nhau. trong mối quan hệ này là nguyên nhân, trong mối quan hệ khác lại là kết quả.
c. Tất nhiên-ngẫu nhiên
- Cùng với các cặp phạm trù cái chung-cái riêng, bản chất-hiện tượng) cặp phạm trù tất nhiên-ngẫu nhiên là cơ sở phương pháp luận của các phương pháp phân tích và tổng hợp; diễn dịch và quy nạp; khái quát hoá và trừu tượng hoá để từ đó nhận thức được toàn bộ các mối liên hệ theo hệ thống;
- Định nghĩa. Tất nhiên là cái do mối liên hệ bản chất, những nguyên nhân cơ bản bên trong sự vật, hiện tượng quy định và trong những điều kiện nhất định phải xẩy ra đúng như thế chứ không thể khác. Ngẫu nhiên là cái do mối liên hệ không bản chất, do những nguyên nhân, hoàn cảnh bên ngoài quy định, có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện thế này hoặc có thể xuất hiện thế khác.
- Cũng cần xét mối liên hệ của tất nhiên-ngẫu nhiên với các phạm trù cái chung, tính nhân quả và tính quy luật
+ Có cái chung là tất nhiên, nhưng cũng có cái chung là ngẫu nhiên;
+ Bất kỳ cái ngẫu nhiên nào cũng có nguyên nhân và mối liên hệ của nó với nguyên nhân ấy bao giờ cũng là tất yếu, nó được coi là hiện tượng ngẫu nhiên bởi nguyên nhân gây ra nó là những nguyên nhân ngẫu nhiên;
+ Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tuân theo quy luật, nhưng tất nhiên tuân theo quy luật động lực (đơn trị, ứng với một nguyên nhân chỉ có một kết quả, vì vậy nếu biết trạng thái ban đầu của một hệ thống nào đó, có thể dự đoán được chính xác trạng thái tương lai của nó); còn ngẫu nhiên tuân theo quy luật thống kê (đa trị, ứng với một nguyên nhân, thì kết quả có thể thế này, thế khác và chỉ có thể dự báo được với xác suất nhất định)
- Mối liên hệ biện chứng giữa tất nhiên với ngẫu nhiên và ý nghĩa phương pháp luận của nó
+ Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan. Vì vậy, không tìm tất nhiên và ngẫu nhiên trong ý thức con người;
+ Tất nhiên chi phối sự phát triển của sự vật, hiện tượng; còn ngẫu nhiên có thể làm cho sự phát triển ấy diễn ra nhanh hoặc chậm. Vì vậy, cần dựa vào tất nhiên, nhưng không bỏ qua ngẫu nhiên;
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên thống nhất với nhau bởi cái tất nhiên vạch đường đi cho mình xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên; còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện, là cái bổ sung cho cái tất nhiên. Vì vậy, muốn nhận thức cái tất nhiên phải bắt đầu từ cái ngẫu nhiên và chỉ vạch ra cái tất nhiên bằng cách nghiên cứu nhiều cái ngẫu nhiên;
+ Ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ là tương đối, có cái ở nơi này, mặt này, mối liên hệ này là tất nhiên nhưng ở nơi kia, mặt kia, mối liên hệ kia lại là ngẫu nhiên và ngược lại; trong những điều kiện nhất định, chúng có thể chuyển hóa cho nhau.
Vì vậy, cần chú ý tạo những điều kiện cần thiết để sự chuyển hóa đó diễn ra, hoặc ngăn cản, theo yêu cầu của hoạt động của mình.
d. Nội dung-hình thức
- Cặp phạm trù nội dung-hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa dạng của các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn;
- Định nghĩa. Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng. Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật, hiện tượng và không chỉ là cái biểu hiện bên ngoài, mà hình thức còn thể hiện cấu trúc bên trong của sự vật, hiện tượng (hình thức nói ở đây là hình thức bên trong sự vật, hiện tượng- tức cơ cấu bên trong của nội dung);
- Mối liên hệ biện chứng giữa nội dung với hình thức và ý nghĩa phương pháp luận của nó
+ Nội dung và hình thức thống nhất gắn bó chặt chẽ với nhau; cùng một nội dung nhưng trong tình trạng phát triển khác nhau có thể có nhiều hình thức, và ngược lại, cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau. Vì vậy, cần chống lại cả hai khuynh hướng hoặc tuyệt đối hoá nội dung mà coi nhẹ hình thức, hoặc tuyệt đối hoá hình thức mà coi nhẹ nội dung;
+ Vì một nội dung có thể có nhiều hình thức thể hiện và ngược lại, nên cần phải sử dụng mọi loại hình thức có thể có, mới cũng như cũ, kể cả việc phải cải biến những hình thức vốn có, lấy cái này bổ sung, thay thế cho cái kia để làm cho bất kỳ hình thức nào cũng trở thành công cụ để phục vụ cho nội dung mới;
+ Nội dung quy định hình thức nên phải căn cứ vào nội dung để tác động, làm thay đổi nội dung; đồng thời, vì hình thức tác động ngược lại lên nội dung, thúc đẩy hoặc kìm hãm nội dung phát triển nên cần luôn theo dõi để kịp thời can thiệp vào tiến trình biến đổi của hình thức để đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của nội dung.
e. Bản chất-hiện tượng
- Cùng với các cặp phạm trù cái riêng-cái chung, tất nhiên-ngẫu nhiên; cặp phạm trù bản chất-hiện tượng là cơ sở phương pháp luận của các phương pháp phân tích và tổng hợp; diễn dịch và quy nạp; khái quát hoá và trừu tượng hoá để từ đó nhận thức được toàn bộ các mối liên hệ theo hệ thống;
- Định nghĩa. Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định bên trong quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
Hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở bên ngoài, dễ biến đổi hơn và là hình thức biểu hiện bản chất của sự vật, hiện tượng.
- Cũng cần phân biệt cái bản chất với cái chung; cái tạo nên bản chất của một lớp sự vật, hiện tượng cũng đồng thời là cái chung của chúng; tuy nhiên, không phải cái chung nào cũng là cái bản chất. Cái bản chất cũng là cái có tính quy luật; là phạm trù cùng bậc với phạm trù quy luật “Quy luật và bản chất là những khái niệm cùng một loại (cùng một bậc), hay nói đúng hơn, là cùng một trình độ, những khái niệm này biểu hiện con người nhận thức ngày càng sâu sắc các hiện tượng, thế giới”68.
- Mối liên hệ biện chứng giữa bản chất với hiện tượng và ý nghĩa phương pháp luận của nó
+ Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan bởi bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng được tạo nên từ các yếu tố khách quan nằm trong mối liên hệ với nhau, trong đó có những mối liên hệ tạo thành bản chất. Vì vậy, chỉ có thể tìm bản chất bên trong sự vật, hiện tượng nên cần tránh chủ quan, duy ý chí khi kết luận về bản chất sự vật, hiện tượng;
+ Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau; thể hiện ở chỗ bất kỳ bản chất nào cũng bộc lộ ra qua hiện tượng tương ứng, còn hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ bản chất ở mức độ nào đó hoặc nhiều hay ít. Vì vậy, khi đi tìm bản chất, phải thông qua việc nghiên cứu các hiện tượng;
+ Tuy nhiên sự thống nhất giữa bản chất với hiện tượng có tính mâu thuẫn, chúng không bao giờ phù hợp nhau hoàn toàn; thể hiện ở chỗ a) bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng; hiện tượng phản ánh cái cá biệt b) bản chất là mặt bên trong, ẩn giấu của sự vật, hiện tượng; hiện tượng là mặt bên ngoài của sự vật, hiện tượng ấy c) bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm; hiện tượng không ổn định, biến đổi nhanh hơn bản chất. Vì vậy, để nhận thức được đầy đủ và đúng đắn về sự vật, hiện tượng không nên dừng lại ở hiện tượng mà phải đi sâu tìm bản chất, dựa vào bản chất;
+ Hiện tượng biểu hiện bản chất bao giờ cũng dưới dạng cải biến, nhiều khi bị xuyên tạc. Vì vậy, nhận thức bản chất của sự vật, hiện tượng phải đi từ các góc độ khác nhau của nhiều hiện tượng khác nhau, đặc biệt là những hiện tượng điển hình tồn tại trong những hoàn cảnh điển hình.
f. Khả năng-hiện thực
- Cùng với cặp phạm trù nguyên nhân-kết quả; cặp phạm trù khả năng-hiện thực là cơ sở phương pháp luận chỉ ra các mối liên hệ và sự phát triển của sự vật, hiện tượng là một quá trình tự nhiên;
68 V.I.Lênin: Toàn tập, 2005, t.29, tr.161