TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI

Một phần của tài liệu Tap bai giảng phan triết học môn những nguyên lý 2014 copy (Trang 71 - 75)

CHƯƠNG 3. CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

II. TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI

Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là những thuật ngữ của triết học duy vật biện chứng về xã hội do C.Mác tạo ra và sử dụng để giải quyết vấn đề triết học trong lĩnh vực xã hội. Tồn tại xã hội là đời sống hiện thực do con người làm ra, là kết quả phát triển lâu dài của xã hội loài người với tư cách là một cộng đồng; hiện thực ấy được con người ý thức, làm ra một cách có ý thức nên ý thức về hiện thực (ý thức xã hội) tất yếu gắn với hoạt động cải tạo thế giới và giao tiếp với nhau của con người xã hội trong quá trình làm ra hiện thực ấy.

Quan niệm như vậy về mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội của C.Mác được hình thành từ khi ông cho rằng, khi con người tiếp xúc với thế giới khách quan, thì tồn tại xã hội và ý thức xã hội là "tổng số những hoạt động sống và cảm giác được của những cá nhân họp thành thế giới ấy"82. Điều đó có nghĩa là tồn tại xã hội không phải là thế giới khách quan xa lạ, mà là thế giới với tư cách đã là "thân thể vô cơ"83 của con người. Ý thức xã hội đã không chỉ là nhận thức, mà còn là xúc cảm, sự ham muốn, ý chí v.v thúc đẩy hành động của con người. Nói cách khác, đối tượng nhận thức (tồn tại xã hội) tuy vẫn là giới tự nhiên, nhưng đã được con người tác động và con người nhận thức giới tự nhiên ấy (ý thức xã hội) chứ không phải nhận thức giới tự nhiên chưa có sự cải biến của con người.

C.Mác lý giải các xã hội trước chưa đạt tới nhận thức đúng về bản thân mình là do chúng tồn tại như những thực tại tự nhiên, chưa đạt tới tính tự giác. Thể hiện rõ nhất thực trạng này là xã hội tư bản, nơi điều kiện sống làm con người trở thành những cá thể biệt lập, quan hệ với nhau chỉ là sự trao đổi hàng hoá do họ làm ra một cách phi nhân tính, là sự cạnh tranh tuyệt đối với nhau để tồn tại. Đó là một tồn tại xã hội bị vật hoá, vượt khỏi phạm vi kiểm soát của ý thức, tạo nên màn sương giả dối che giấu mối quan hệ trực tiếp giữa người với sản phẩm do mình làm ra, giữa người với người, giữa xã hội với tự nhiên và đó cũng chính là điều kiện để ý thức bay lên vương quốc của ảo tưởng nên ý thức đó chỉ là biểu hiện tính tư biện của triết học. Vì ý thức tư biện ấy không đủ khả năng phản ánh trung thực bản chất xã hội đang tồn tại, do vậy không thể gọi đó là sự phản ánh gần đúng để có thể bổ sung cho đúng hơn mà chỉ là sự mê muội vô phương cứu chữa nếu không làm cách mạng lật đổ xã hội hiện tồn. C.Mác gọi tình trạng này là sự tha hoá, xuất hiện khi bản tính đích thực của con người là lao động có ý thức và có

82 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập/ Hệ tư tưởng Đức (1846), t.3, tr.64

83 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập/C.Mác: Bản thảo kinh tế-triết học năm 1844

mục đích84, bị biến thành lao dịch, sản phẩm làm ra để phục vụ nhu cầu biến thành thứ buộc con người quy phục; nhân tính trở thành phi nhân tính, sáng tạo trở thành nô lệ, ý thức trở thành vô ý thức. Có tình trạng ấy là do trình độ phát triển của đời sống loài người còn thấp, chưa tạo đủ lượng thật sự cách mạng để xoá bỏ màn sương che giấu mọi sự tiếp xúc giữa con người (ý thức xã hội) với điều kiện tồn tại người (tồn tại xã hội).

Lý giải luận điểm tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội, C.Mác cho rằng “chính con người, khi phát triển sản xuất vật chất và giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình. Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức”85. Tức là chỉ có và chỉ trong hoạt động thực tiễn cải biến thế giới, ý thức mới là, mới thể hiện mình là ý thức xã hội. Luận điểm này của C.Mác vừa nêu điều kiện đảm bảo tính chân thực của ý thức bằng cách gắn ý thức xã hội với tồn tại xã hội, vừa thể hiện tính khách quan của tồn tại xã hội bằng cách chứng minh rằng, hình thái kinh tế-xã hội do giai cấp vô sản xây dựng sẽ thay thế các xã hội trước đã không thể phản ánh chân thực tính khách quan của tồn tại xã hội và rằng, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất cho sự thay thế dẫn đến phát triển xã hội, giai cấp vô sản chỉ cần hiện thực hóa tiềm năng cách mạng của mình để lao động có ý thức và có mục đích phục hồi được bản chất có ý thức của mình. Do vậy, cần thúc đẩy chủ nghĩa tư bản tự phủ định một cách hiện thực, giai cấp vô sản phải tự sinh ra được ý thức cộng sản một cách hiện thực, biến cả hai tiềm năng ấy thành hiện thực; khi đó, cuộc cách mạng của C.Mác sẽ là cuộc cách mạng hiện thực, minh chứng cho sự khác biệt với các cuộc cách mạng về ý thức mà C.Mác đã phê phán.

1. Các khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội a. Tồn tại xã hội

- Định nghĩa (theo Giáo trình). Tồn tại xã hội là thuật ngữ dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất- xã hội giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau; trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội.

- Các thành phần chính của tồn tại xã hội gồm phương thức sản xuất vật chất;

điều kiện tự nhiên, môi trường địa lý; dân số và mật độ dân số v.v, trong đó phương thức sản xuất vật chất là thành phần cơ bản nhất. Các quan hệ vật chất khác giữa gia đình, giai cấp, dân tộc v.v cũng có vai trò nhất định đối với tồn tại xã hội.

b. Ý thức xã hội

- Định nghĩa (theo Giáo trình). Ý thức xã hội là là thuật ngữ dùng để chỉ sinh hoạt tinh thần của đời sống xã hội, gồm tình cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận v.v nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau. Nói cách khác, ý thức xã hội là những quan hệ tinh thần giữa con người với nhau, là mặt tinh thần trong quá trình lịch sử;

84 C.Mác: Tư bản, t.I, Phần I/Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2004,

85 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập/ Hệ tư tưởng Đức (1846), t.3, tr.38

- Các thành phần chính của ý thức xã hội gồm các cấp độ khác nhau của ý thức xã hội (ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận/khoa học; tâm lý xã hội và hệ tư tưởng) và các hình thái của ý thức xã hội (ý thức chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, khoa học v.v);

- Hình thức chính của ý thức xã hội (tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội)

+ Tâm lý xã hội gồm tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán v.v được hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày và phản ánh đời sống đó. Tâm lý xã hội phản ánh trực tiếp các sinh hoạt hàng ngày và quá trình phản ánh này thường mang tính tự phát, chỉ ghi lại những biểu hiện bề mặt bên ngoài của xã hội;

+ Hệ tư tưởng xã hội là trình độ cao của ý thức xã hội; hình thành khi con người đã nhận thức được các điều kiện sinh hoạt vật chất của mình; là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật v.v) kết quả của sự khái quát những kinh nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng hình thành tự giác, tạo ra tư tưởng của các giai cấp và được truyền bá trong xã hội, có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội. Có hai loại hệ tư tưởng là a) Hệ tư tưởng khoa học- phản ánh chính xác, khách quan và b) Hệ tư tưởng không khoa học- phản ánh sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc tồn tại xã hội.

2. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội

Triết học duy vật biện chứng về xã hội khẳng định ý thức về hiện thực (tồn tại xã hội) và hiện thực được ý thức (ý thức xã hội) không phải là hai phần đối lập, mà “ý thức ... không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là tồn tại được ý thức ... và tồn tại của con người là quá trình đời sống hiện thực của con người"86. Nói rộng ra, ý thức không phải là ý thức nói chung, phản ánh tồn tại nói chung, cũng không phải là ý thức của mỗi cá nhân riêng lẻ hoặc chỉ là những phạm trù lý luận khuôn mẫu cho các hiện tượng hiện thực, mà ý thức luôn gắn với một thực tại lịch sử nhất định nên mang nội dung rất cụ thể. Do vậy, để hiểu được bản chất ý thức, con người không thể dừng lại ở bản thân ý thức, hoặc giải thích ý thức bằng ý thức khác, mà cần đưa ý thức về với hiện thực đã đem lại ý nghĩa cho ý thức; đồng thời thúc đẩy ý thức vận động cho kịp với hiện thực sẽ đem lại ý nghĩa mới cho mình.

a. Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội

"Không phải ý thức của con người quy định sự tồn tại của họ, mà ngược lại, tồn tại xã hội của họ quy định ý thức của họ"87

- Tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ hai

+ Tồn tại xã hội quy định nội dung, bản chất, xu hướng vận động của ý thức xã hội. Ý thức, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất. Nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội chỉ tìm thấy trong hiện thực vật chất;

+ Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không thể giải thích nếu chỉ căn cứ vào ý thức của nó, mà phải giải thích bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột giữa lực lượng sản xuất xã hội với những quan hệ xã hội;

86 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập/ Hệ tư tưởng Đức (1846), t.3, tr.37

87 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, 2004, t.13, tr.15

- Tồn tại xã hội thay đổi là điều kiện quyết định để ý thức xã hội thay đổi. Mỗi khi tồn tại xã hội, đặc biệt là phương thức sản xuất thay đổi thì tư tưởng và lý luận xã hội cũng biến đổi theo. Vì vậy, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, nếu có những quan điểm, học thuyết xã hội khác nhau về cùng một vấn đề thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất của chúng (thời kỳ lịch sử) quy định;

Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội không giản đơn, trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất kỳ tư tưởng, quan niệm, lý luận, hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ và trực tiếp những quan hệ vật chất, kinh tế của thời đại, chỉ khi xét cho đến cùng mới thấy rõ những mối quan hệ vật chất, kinh tế được phản ánh, bằng cách này hay cách khác, trong các tư tưởng ấy. Như vậy, sự phản ánh tồn tại xã hội của ý thức xã hội cần được xem xét một cách biện chứng.

b. Tính độc lập tương đối và sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội

Tính độc lập tương đối và sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội thể hiện ở sự phát triển về chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, nghệ thuật v.v dựa vào sự phát triển vật chất, kinh tế. Nhưng tất cả những sự phát triển đó đều tác động lẫn nhau và cũng tác động đến cơ sở kinh tế.

- Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở

+ Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội (thực tiễn nằm chờ lý luận) do không phản ánh kịp những thay đổi của tồn tại xã hội; do sức ỳ của thói quen, tập quán và tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội; do lợi ích v.v tiếp tục tồn tại cho dù những điều kiện lịch sử sinh ra chúng đã thay đổi;

+ Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội (lý luận nằm chờ thực tiễn). Do tính năng động của ý thức, trong những điều kiện nhất định, tư tưởng, đặc biệt là những tư tưởng khoa học có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội; dự báo được và có tác dụng tổ chức, hướng hoạt động thực tiễn vào mục đích nhất định. Tuy nhiên, sự vượt trước này cũng bao hàm khả năng ảo tưởng;

+ Ý thức xã hội có tính kế thừa. Quan điểm, lý luận của mỗi thời đại được tạo ra trên cơ sở kế thừa lý luận của các thời đại trước. Do vậy, nếu không chú ý đến sự phát triển tư tưởng của các giai đoạn lịch sử trước được kế thừa thì khó giải thích được một tư tưởng nhất định. Lịch sử phát triển tư tưởng cho thấy những giai đoạn hưng thịnh và suy tàn của tư tưởng đôi khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh và suy tàn của kinh tế. Điều này chứng tỏ, đôi khi một nước có nền kinh tế kém phát triển, nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát triển cao hoặc ngược lại;

+ Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội gây ảnh hưởng tới tồn tại xã hội; tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, có hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu, tác động và chi phối các hình thái ý thức xã hội khác. Điều này nói lên rằng, các hình thái ý thức xã hội không chỉ chịu sự quy định của tồn tại xã hội, mà còn chịu sự tác động lẫn nhau, làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những tính chất và những mặt không thể giải thích trực tiếp được bằng các quan hệ vật chất, kinh tế;

Sự tác động trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội biểu hiện tính độc lập tương đối của ý thức xã hội với tồn tại xã hội. Đó là sự tác động nhiều chiều với các phương thức vật chất, phức tạp; thể hiện mức độ phù hợp giữa tư tưởng với hiện thực; sự xâm

nhập của ý thức xã hội vào quần chúng về cả chiều sâu, chiều rộng và phụ thuộc vào khả năng hiện thực hoá ý thức xã hội của giai cấp và đảng phái cầm quyền.

Một phần của tài liệu Tap bai giảng phan triết học môn những nguyên lý 2014 copy (Trang 71 - 75)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(89 trang)
w