Chương 2: Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái
2.1. Khái niệm nhân vật và thế giới nhân vật
Về mặt thuật ngữ:
Hiểu theo nghĩa rộng: “nhân vật” là khái niệm không chỉ được dùng trong văn chương mà còn ở nhiều lĩnh vực khác. Theo Từ điển tiếng Việt thì
“nhân vật” là khái niệm mang hai nghĩa: nghĩa thứ nhất đó là đối tượng (thường là con người) được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm văn học [11;
881]. Thứ hai, đó là người có một vai trò nhất định trong xã hội [11; 881].
Tức là, thuật ngữ “nhân vật” được dùng phổ biến ở nhiều mặt, cả đời sống nghệ thuật, đời sống xã hội - chính trị lẫn đời sống sinh hoạt hàng ngày.
Nhưng trong phạm vi nghiên cứu của khoá luận, chúng tôi chỉ đề cập đến khái niệm “nhân vật” theo nghĩa thứ nhất mà bộ Từ điển tiếng Việt định nghĩa như vừa trích dẫn ở trên, tức là nhân vật trong tác phẩm văn chương.
Với ý nghĩa như thế của khái niệm “nhân vật”, ta sẽ trở lại xuất xứ của thuật ngữ này.
Trong tiếng Hy Lạp cổ, “nhân vật” (đọc là “persona”) lúc đầu mang ý nghĩa chỉ cái mặt nạ của diễn viên trên sân khấu. Theo thời gian, chúng ta đã sử dụng thuật ngữ này với tần số nhiều nhất, thường xuyên nhất để chỉ đối tượng mà văn học miêu tả và thể hiện.
Đến cuốn Lí luận văn học do tác giả Phương Lựu chủ biên đã định nghĩa khá chi tiết về khái niệm nhân vật văn học: Nói đến nhân vật văn học là
Trần Thị Nguyệt 24 K32C - Ngữ Văn nói đến con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Đó là những nhân vật có tên như: Cám, Tấm, Thạch Sanh, “Đó là những nhân vật không tên như: thằng bán tơ, một mụ nào đó trong Truyện Kiều. Đó là những con vật trong truyện cổ tích, đồng thoại, thần thoại, bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma quỷ, những con vật mang nội dung ý nghĩa con người (…). Khái niệm nhân vật có khi chỉ được sử dụng một cách ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào mà chỉ một hiện tượng nổi bật trong tác phẩm. Nhưng chủ yếu là hình tượng con người trong tác phẩm. Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật ước lệ, có những dấu hiệu để ta nhận ra [8;
277- 278].
Trong cuốn Lí luận văn học do Giáo sư Hà Minh Đức chủ biên lại định nghĩa như sau: Nhân vật trong văn học là một hiện tượng nghệ thật mang tính ước lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiêp, tính cách. Và cần chú ý thêm một điều: thực ra khái niệm nhân vật thường được quan niệm với một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, đó không chỉ là con người, những con người có tên hoặc không tên, được khắc hoạ sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm, mà còn có thể là sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bong dáng, tính cách con người. Cũng có khi đó không phải là những con người, sự vật cụ thể, mà chỉ là một hiện tượng về con người hoặc có liên quan tới con người, được thể hiện nổi bật trong tác phẩm [1; 102].
Khái niệm “nhân vật văn học” còn được định nghĩa trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi với nội dung cơ bản giống với định nghĩa trong cuốn Lí luận văn học đã nêu: Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng (Tấm, Cám, chị Dậu, anh Pha…),
Trần Thị Nguyệt 25 K32C - Ngữ Văn cũng có thể không có tên riêng (…). Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm (…). Nhân vật văn học là một đơn vị đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống [3; 235].
Nói tóm lại, các nhà văn, các nhà nghiên cứu, nhà lí luận văn học bằng cách này hay cách khác khi định nghĩa nhân vật văn học vẫn cơ bản gặp nhau ở những nội hàm không thể thiếu của khái niệm này: Thứ nhất, đó phải là đối tượng mà văn học miêu tả, thể hiện bằng những phương tiện văn học. Thứ hai, đó là những con người hoặc những con vật, đồ vật, sự vật, hiện tượng mang linh hồn con người, là hình ảnh ẩn dụ của con người. Thứ ba, đó là đối tượng mang tính ước lệ và có cách điệu so với đời sống hiện thực bởi nó đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ tài năng.
Đối với mỗi nhân vật văn học thì tính cách được coi là đặc điểm quan trọng nhất, là nội dung của mọi nhân vật văn học [8; 280]. Đôtxtôiepxki cũng khẳng định: Đối với nhà văn toàn bộ vấn đề là ở tính cách [8; 280]. Tính cách với ý nghĩa rất lớn như vậy nên trước kia một số giáo trình Nga đã gọi nhân vật là tính cách. Ở đây cần hiểu tính cách là phẩm chất xã hội lịch sử của con người thể hiện qua các đặc điểm cá nhân, gắn liền với phẩm chất tâm sinh lí của họ, tính cách cũng là nhân vật nhưng là nhân vật được thể hiện với một chất lượng tư tưởng và nghệ thuật cao hơn, tuy chưa đạt đến mức độ là điển hình [3; 105]. Và tính cách tự nó cũng bao hàm những thuộc tính như có nét cụ thể, độc đáo của một con người cá biệt nhưng lại mang cả những nét chung tiêu biểu cho nhiều người khác ở một mức độ nhất định, đồng thời có một quá trình phát triển hợp với lôgic khách quan của đời sống.
Trần Thị Nguyệt 26 K32C - Ngữ Văn Như vậy, nhân vật có hạt nhân là tính cách. Trong tác phẩm văn chương có nhân vật được khắc hoạ tính cách nhiều hay ít nhưng cũng có nhân vật không được khắc hoạ tính cách.
2.1.2. Khái niệm thế giới nhân vật
“Thế giới” là một khái niệm thuộc phạm trù triết học. Theo Từ điển triết học, “thế giới”có thể hiểu:
- Theo nghĩa rộng là toàn bộ hiện thực khách quan (tất cả những tồn tại ở bên ngoài và độc lập với ý thức con người). “Thế giới” là nguồn gốc của nhận thức [17; 1083].
- Theo nghĩa hẹp: dùng để chỉ đối tượng của vũ trụ học, nghĩa là bộ phận thế giới vật chất do thiên văn học nghiên cứu. Người ta chia bộ phận thế giới vật chất đó thành hai lĩnh vực nhưng không có ranh giới tuyệt đối: thế giới vĩ mô và thế giới vi mô [17; 1083].
Như thế, có thể nói “thế giới” là một phạm vi rất rộng, một vũ trụ rộng lớn tồn tại xung quanh con người và độc lập bên ngoài ý thức con người.
Vậy “thế giới nhân vật” là gì? Khái niệm “thế giới nhân vật” là một phạm trù rất rộng. “Thế giới nhân vật” là một tổng thể những hệ thống nhân vật được xây dựng theo quan niệm của nhà văn và chịu sự chi phối của tư tưởng tác giả. Thế giới ấy cũng mang tính chỉnh thể trong sáng tác của nhà văn, có tổ chức và có sự sống riêng, phụ thuộc vào ý thức sáng tạo của nghệ sĩ. Nằm trong thế giới nghệ thuật, “thế giới nhân vật” cũng là sản phẩm tinh thần, là kết quả của trí tưởng tượng, sáng tạo của nhà văn, và chỉ xuất hiện trong tác phẩm văn học, trong sáng tác nghệ thuật. Đó là một mô hình nghệ thuật, có cấu trúc riêng, có quy luật riêng, thể hiện ở đặc điểm con người, tâm lí, không gian, thời gian, xã hội, gắn liền với một quan niệm nhất định của chúng về tác giả. “Thế giới nhân vật” là cảm nhận một cách trọn vẹn, toàn diện và sâu sắc của chủ thể sáng tạo về toàn bộ nhân vật xuất hiện trong tác
Trần Thị Nguyệt 27 K32C - Ngữ Văn phẩm, mối quan hệ, môi trường hoạt động của họ, ý nghĩ, tư tưởng, tình cảm của họ trong cách đối nhân xử thế, trong giao lưu với xã hội, với gia đình,…
“Thế giới nhân vật” vì thế bao quát sâu rộng hơn hình tượng nhân vật. Con người trong văn học chẳng những không giống với con người trong thực tại về tâm lí, hoạt động mà còn có ý nghĩa khái quát, tượng trưng.
Trong “thế giới nhân vật”, người ta có thể phân chia thành các kiểu loại nhân vật nhỏ hơn (nhóm nhân vật) dựa vào những căn cứ, tiêu chí nhất định.
Nhiệm vụ của người tiếp nhận văn học là phải tìm ra chìa khoá để bước qua cánh cửa và bước vào khám phá thế giới nhân vật đó. Do đó nghiên cứu “thế giới nhân vật” cũng khác với phân tích hình tượng nhân vật. Trong lịch sử văn học, có thể nói, mỗi tác giả lớn đều có thế giới nhân vật riêng. Mỗi thể loại văn học cũng có “thế giới nhân vật” với quy luật riêng của nó.