Nhân vật nghịch dị

Một phần của tài liệu Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết mười lẻ một đêm của hồ anh thái (Trang 27 - 37)

Chương 2: Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái

2.2. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái

2.2.1. Nhân vật nghịch dị

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: Nghịch dị là một kiểu tổ chức hình tượng nghệ thuật (hình tượng, phong cách, thể loại) dựa vào huyễn tưởng, tiếng cười, sự phóng đại, lối kết hợp và tương phản một cách kì quặc cái huyễn hoặc với cái thực, cái đẹp với cái xấu, cái bi với cái hài, cái giống như thực với cái biếm hoạ [3; 203].

Trần Thị Nguyệt 28 K32C - Ngữ Văn Theo Hoài Nam thì: Nhân vật nghịch dị là những nhân vật mang trong mình một vài nét tính cách lập dị, thậm chí quái đản, nó phô lộ ra giữa chợ đời một cách hồn nhiên và hoàn toàn không nghĩ rằng mình lập dị, quái đản [9].

Trong các sáng tác gần đây của Hồ Anh Thái như: truyện ngắn Trại cá sấu, Bốn lối vào nhà cười, tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế,…

xuất hiện khá nhiều nhân vật nghịch dị. Tiêu biểu phải kể đến tiểu thuyết Mười lẻ một đêm mà chúng ta đang tìm hiểu. Phần lớn các nhân vật trong tiểu thuyết này đều ít nhiều mang trong mình chất nghịch dị. Hồ Anh Thái chủ yếu dùng tiếng cười, sự phóng đại để xây dựng nên những nhân vật nghịch dị này.

Nhân vật hoạ sĩ Chuối Hột (hoạ sĩ trồng cây chuối) là nhân vật nghịch dị tiêu biểu trong Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái. “Bốn mươi tám cái xuân xanh là bốn mươi tám mùa cởi mở. Thời trang yêu thích nhất là bộ cánh lúc lọt lòng mẹ” [14; 19]. Sở thích - nếu có thể gọi đó là sở thích hoặc niềm đam mê - khoả thân của hoạ sĩ Chuối Hột được Hồ Anh Thái phóng đại tối đa. Ấn tượng nhất đối với bạn đọc có lẽ là hình ảnh: “Trong một góc nhà gã chống đầu xuống đất hai chân duỗi thẳng lên trời, thân người bóng nhẫy trắng lôm lốp như thân chuối. Tất nhiên là chuối hột trổ hoa ở quãng lưng chừng trời” [14; 22]. Đó là cảnh hoạ sĩ Chuối Hột khoả thân tập Yoga khi cửa nhà đang mở. Hình ảnh quái đản này của hoạ sĩ Chuối Hột khiến ta nhớ tới chàng hiệp sĩ xứ Mantra của Cervantes - nhân vật nghịch dị vĩ đại trong văn học thế giới. Khi điên cuồng nghĩ tới nàng Dulcinea, Đon Quijote đã trồng cây chuối, áo sơ mi dốc xuống trùm mặt và chàng ta không hề mặc quần.

Nhưng ở đây hoạ sĩ Chuối Hột của chúng ta có lẽ còn hiện đại hơn, quái dị hơn khi khoả thân để trồng cây chuối.

Bên cạnh hình ảnh khác người đó, hoạ sĩ Chuối Hột còn có thói quen cũng rất quái dị. Đó là thói quen bỗng dưng biến mất một thời gian dài mà

Trần Thị Nguyệt 29 K32C - Ngữ Văn như không biết, không nhớ. “Nửa tháng sau đầu sỏ mới về. Suốt chiều dài của nhóm Ngũ Hổ thỉnh thoảng gã lại có những cú mất tích giữa ban ngày như vậy. Sau nửa tháng một tháng trở lại cứ như bỏ bàn nhậu ra ngoài năm phút rồi trở lại nhậu tiếp.” [14; 42].

Đọc những trang văn Hồ Anh Thái viết về hoạ sĩ Chuối Hột, người đọc cười liên tục. Đó là một chân dung lố bịch, quái đản hết mức. Và đặc biệt hơn khi chính nhân vật lại không hề biết hành động của y như thế là khác người, là lập dị. Thậm chí y còn thấy tự tin, tự hào khi sở thích “cởi mở” của mình được nhiều người hưởng ứng. “Sang ngày thứ hai gã nằm phơi công cụ được một lúc thì có mấy Tây kéo sang, cũng thản nhiên nằm nuy hết cả ra. Một giờ sau thì thêm cả Tây cả ta kéo đến. Bãi biển đời người thịt da trắng lôm lốp”

[14; 22]. Hồ Anh Thái đã phóng đại những đặc điểm khác người đó để tạo nên tiếng cười trào lộng, giễu nhại đối với nhân vật. Hoạ sĩ Chuối Hột chính là một đại diện tiêu biểu cho một bộ phận những người làm nghệ thuật - làm nên cái đẹp nhưng lại rất lố bịch, quái dị, có những hành vi phản lại cái đẹp.

Chính vì thế mà độc giả bật cười rồi sau đó lại suy tư, lo lắng trước nhân tình thế thái.

Một nhân vật cũng đậm chất nghịch dị là nhân vật Bà mẹ. Cái dâm của người đàn bà này được Hồ Anh Thái phóng đại, mở rộng tới mức quá khổ, quá mức. Qua năm lần đò và vô vàn những cuộc phiêu lưu tình ái - phần lớn đều diễn ra trước mắt của đứa con gái, “con bé phải chứng kiến tất cả các loại đàn ông của mẹ” [14; 63], thì bà mẹ là người ham hố nhục dục đến mức vô độ và vô liêm sỉ. Hồ Anh Thái còn tô đậm chất nghịch dị ở người đàn bà này bằng câu nói mà bà ta lặp đi lặp lại với từng đối tác mới trong thú vui xác thịt triền miên, vô tận của mình: “Thôi về làm gì, ở lại đây mà ngủ cho vui.”

[14; 72]. Cũng có thể coi đó như một dấu hiệu cá biệt hoá nhân vật, giống câu

Trần Thị Nguyệt 30 K32C - Ngữ Văn

“Biết rồi khổ lắm nói mãi.” [12; 354] của cụ Cố Hồng trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.

Phải chăng đó là do sự nhẹ dạ, cả tin, nông nổi, nhiều lầm lạc, như con thiêu thân trong lò lửa đam mê ở người đàn bà hoang dại này gây nên? Nhưng tất cả những nghi vấn ấy phải được xét lại trước một thực tế: “Năm lần lấy chồng, năm lần li dị, mỗi lần được một cái nhà. Chồng đầu tiên được một cái nhà để xe. Chồng thứ hai được chia căn phòng hai mươi sáu mét vuông.

Chồng thứ ba căn hộ tập thể tầng hai. Chồng thứ tư được chín mét vuông phố cổ. Chồng thứ năm khá nhất, giáo sư viện trưởng, căn hộ chung cư chất lượng cao.” [14; 61 - 62]. Việc nâng dần cấp độ đền bù sau mỗi lần li hôn như vậy là một cách phóng đại cho cái tham lam của Bà mẹ. Để rồi người đọc phải bật cười tán đồng trước sự tổng kết của cô con gái: “Mẹ ngửi thấy mùi đàn ông và mùi đất đều chén được.” [14; 68].

Một cặp nhân vật nghịch dị cũng không kém phần ấn tượng đó là giáo sư Một (Xí), giáo sư Hai (Khoả). Hai giáo sư mà ngay từ cái tên đã khiến chúng ta bật cười bởi nó gắn với một giai thoại: “Có lần giáo sư Xí đến gọi giáo sư Khoả đi họp đột xuất. Ông Xí lấy phấn trắng viết lên cửa nhà ông Khoả một lời nhắn: Khoả thân đến ngay nhà Xí để họp. Nhớ mang theo giấy… Toàn tổ sẽ họp ở nhà Xí lúc 9 giờ.” [14; 204]. Độc giả cười nghiêng ngả để rồi sau đó phục cái tài giễu nhại nhân vật rất tài tình của Hồ Anh Thái.

Mỗi giáo sư lại được Hồ Anh Thái tô đậm chất nghịch dị ở những khía cạnh khác nhau. Giáo sư Khoả vốn là chồng thứ năm của nhân vật Bà mẹ.

Ông khác người ở cái bệnh cười không dừng lại được của mình: “Chỉ định bật lên một tiếng cười thôi thì cứ thế mà cười mãi. Không sao hãm lại được.

Hơ hơ hơ hơ. Mãi. Chập dây thần kinh cười.” [14; 91]. Không có thuốc chữa tận gốc căn bệnh ấy, chỉ có một giải pháp tình thế “Hễ bật lên tràng cười không tắt được thì chỉ việc tát cho chàng một cái. Đứt luôn.” [14; 92]. Cái

Trần Thị Nguyệt 31 K32C - Ngữ Văn bệnh nan y kết hợp với cái dâm cố hữu của ông nên “sáu mốt tuổi tây, bảy mươi tuổi ta vẫn ham cầm tay học trò yêu. Tất nhiên là học trò gái” [14; 92].

Giáo sư Khoả hướng dẫn luận văn cho nữ sinh, đến lúc ra về sinh viên khẩn khoản xin lại thầy cái chân trong khi thầy cứ cười mãi không buông ra. “Thầy bật cười khan. Cười khan tức là chỉ cười một tiếng. Chết dở, nãy giờ thầy cho em về mà tay thầy vẫn giữ đùi em. Thầy cười khan, nhưng bệnh cười vượt quá quy định, bắt đầu nhân ra thành chuỗi cười bất tận. Cô sinh viên hoảng quá.

Chẳng biết ứng phó thế nào. Cũng không dám rút chân ra khỏi tay thầy.

Đúng lúc nàng về. Nàng chồm đến tát vào mặt chồng một cái. Tịt. Nàng hất chân con kia ra khỏi tay chồng. Dứt.” [14; 93]. Hoạt cảnh này bộc lộ cái dâm, sự bất lực và cả cái quái đản của nhân vật.

Đó là một vài nét nghịch dị về giáo sư Hai. Vậy còn giáo sư Một- nhân vật kết hợp với giáo sư Hai tạo nên một cặp bài trùng đặc biệt, một giai thoại khó quên thì được Hồ Anh Thái xây dựng như thế nào? Ngay từ đầu tác giả đã giới thiệu cho chúng ta biết: “Ông nổi danh là nhà văn hoá lớn. Hầu như chỉ có mình ông trong cánh giáo sư tiến sĩ có thể sử dụng được tiếng Anh để giảng dạy.” [14; 205]. Nhưng ngay sau đó, ông đã bị “lật tẩy” bằng chính những hành vi đối nghịch với các chuẩn mực văn hoá hiện hành. Dù không phải là đại biểu được mời tham luận trong một buổi Hội thảo quốc tế nhưng khi được mời lên “nói mấy lời chào mừng ngài phó thủ tướng” [14; 210], ông vẫn “vô tư phát biểu” quá thời lượng cho phép khiến cho tất cả mọi người tham dự Hội thảo lâm vào tình thế khó xử. Trong bữa tiệc đứng chiêu đãi sau Hội thảo, ông ăn uống như một kẻ bị bỏ đói nhiều ngày, như “một anh mõ trong xó bếp bần hàn của mình” [9]. “Kinh khủng. Không còn lạ gì mà vẫn thấy khủng khiếp. Nhà văn hoá lớn đang vục đầu vào ăn. Nhai chòm chọp chèm chẹp. (…) Cả một vùng bán kính một mét quanh chỗ ông ngồi, món ăn đã bị cày bừa lật gạt bốc bải ngổn ngang” [14; 214]. Phóng đại cái tham ăn,

Trần Thị Nguyệt 32 K32C - Ngữ Văn cái thô thiển, cái thiếu văn hoá của một nhà văn hoá lớn lên như vậy để tạo tiếng cười giễu nhại thì Hồ Anh Thái quả thật là “đáo để”. Và Hồ Anh Thái còn “đáo để” hơn khi thể hiện chi tiết nhà văn hoá lớn của chúng ta “tè bậy”

ngày hai lần vào chân nhóm tượng đài công nông binh - một công trình văn hoá để nhấn mạnh chất nghịch dị của nhân vật. Thậm chí ông “đái xong nhìn trời nhìn đất ngơ ngơ rồi cứ thế mà đi. Không cài. Lại còn toé ra quần ướt đẫm một mảng.” [14; 258]. Nhà văn hoá lớn tiểu tiện vào công trình văn hoá - một sự đối lập, tương phản giàu dụng ý nghệ thuật, tạo nên tiếng cười trào lộng sâu sắc.

Một nhân vật cũng khá nghịch dị mà ta phải kể đến đó là ông Víp. Ông là một quan chức cấp cao của nhà nước và là chồng của nhân vật người đàn bà. Vậy ở một nhân vật “chỉ mới nghe tên đã biết thế lực thế nào” [14; 12] thì chất nghịch dị thể hiện ở những điểm nào? Đó là ở cái “nhắm mắt” rất khác người của ông. Mỗi khi ông diễn thuyết hay chỉ thị cho cấp dưới, ông đều:

“nói nửa câu, nhắm mắt. Nói tiếp ba câu nữa, nhắm mắt. Ba câu nữa.

Nhắm.” [14; 266]. Cái “nhắm mắt” trong lúc ông diễn thuyết gợi lên điều gì?

“Cái nhắm mắt của ông không diễn được vẻ quan chức. Nó chỉ phô ra vẻ đê mê đang chờ đến cực khoái. Diễn thuyết mà như đang làm tình.” [14; 266].

Đó là những lúc làm việc ở công sở, vậy những lúc tình cảm vợ chồng thì sao? “Nhưng khi gần gũi vợ thì lại như đang diễn thuyết. Thở hồng hộc mà mắt nhắm nghiền. Chọn câu chọn chữ. Câu vàng chữ ngọc.” [14; 266]. Chỉ bằng ấy chi tiết thôi cũng đủ khiến cho độc giả bật cười và nhận rõ bản chất lố bịch của nhân vật. Một cán bộ cấp cao trưởng thành từ cán bộ Đoàn cơ sở, từ những phong trào văn nghệ trong khi “ chuyên môn anh yếu” [14; 303] thì cái lố bịch đó cũng là có cơ sở.

Thằng bé hàng xóm - Vị cứu tinh sành điệu cũng là một nhân vật nghịch dị trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái. Nó chính là

Trần Thị Nguyệt 33 K32C - Ngữ Văn cứu cánh, là thần hộ mệnh giải thoát cho người đàn ông và người đàn bà.

Chất nghịch dị thể hiện ở nhân vật này như thế nào? Thường thì với các nhân vật của mình Hồ Anh Thái ít miêu tả về ngoại hình mà thường nhấn mạnh về hành động để làm nổi bật bản chất của đối tượng. Nhưng với nhân vật này thì nhà văn đã miêu tả ngoại hình của nhân vật - một ngoại hình đầy ấn tượng:

Cao khoảng một mét bảy mươi. Vẻ mặt mười lăm tuổi. Cái đầu xịt gôm sành điệu tuổi mười tám. Tóc nhuộm vàng vuốt gôm tua tủa dựng ngược như đinh guốc. Cái huýt sáo lấc cấc tuổi hai mươi” [14; 244]. “Đầu tóc loè loẹt con vẹt.” [14; 238]. Kết hợp với lối ăn nói lấc cấc: “Ok. Năm triệu chú ơi” [14;

236]. “Đàn ông thời này tốn lắm chú ơi!” [14; 237]. Một thằng bé còn đang tuổi ăn tuổi học mà có một ngoại hình và cách ăn nói như vậy thì quả là trái với tự nhiên, đối lập với lẽ thường. Độc giả đọc đến đây thì thấy hài hước, cười rồi lại thấy xót xa, lo lắng trước sự hư hỏng, đua đòi của một bộ phận thanh thiếu niên hiện nay.

Một nhân vật nghịch dị nữa cũng khá tiêu biểu trong tiểu thuyết này là nhân vật thằng Cá - nhân vật mang đậm tư tưởng nhân văn của tác giả. Thằng Cá là con của nhân vật ông Víp với người vợ trước, tức nó là con chồng của nhân vật người đàn bà. Nó được mang tên là “Cá” hay còn gọi là thằng bé người Cá bởi cái hình hài khác người của nó: “Đôi chân của nó dính làm một từ trên xuống tận mắt cá. Chỉ có hai bàn chân là tách rời. Hai chân làm một.

Một tấm vải quấn quanh cặp chân dính.” [14; 298]. Đó là một cơ thể nửa người, nửa vật, trái với quy luật tự nhiên. Vì thế mà: “Đẻ con xong, người mẹ kinh hãi bỏ đi ngay. Đứa con để lại cho chồng. Ông cũng choáng váng.” [14;

298]. Trong tiểu thuyết này chỉ có duy nhất thằng Cá là mang hình hài kì dị, nửa người nửa vật như vậy. Và cũng chỉ duy nhất nhân vật này có tâm hồn hoàn toàn trong sáng, không bị bụi đời làm vẩn đục. Nó luôn mơ những giấc mơ cổ tích, mơ về những gì tốt đẹp. Chi tiết “tiếng còi tàu” mà thằng Cá mơ

Trần Thị Nguyệt 34 K32C - Ngữ Văn hồ nghe thấy trước khi bị rơi xuống bể bơi phải chăng là âm thanh trong trẻo thức tỉnh con người, hối thúc con người hướng thiện, là âm thanh mà thằng Cá tật nguyền luôn hướng tới: “Hình như thằng Cá nghe thấy một tiếng còi tàu. Trầm đục. Mơ hồ. Hình như gió đưa lại. Thằng Cá lăn xe đến bên cửa sổ ngóng về phía mà nó tin là tiếng còi tàu vừa từ đó vọng tới. Bình thường nó chẳng có ấn tượng gì lắm với tiếng còi tàu. Nhưng bây giờ nó lại ngồi bên cửa sổ ngong ngóng về phía xa.” [14; 277]. Chi tiết này, Hồ Anh Thái khiến chúng ta nhớ đến truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Trong truyện ngắn này, hai chị em Liên và An khi phải sống mãi nơi phố huyện tù túng, ngột ngạt đã luôn thức đợi chuyến tàu đêm. Bởi đoàn tàu đi qua mang theo thứ ánh sáng và âm thanh của một cuộc sống vui tươi, giàu sự sống khác hẳn cuộc sống thực tại của chúng: “Tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng đấy để nhìn đoàn xe vút qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường” [5; 52]. Đó là ước mơ bình dị, trong sáng về một cuộc sống tốt đẹp hơn của những đứa trẻ như Liên, An, cũng như của thằng Cá tật nguyền trong tiểu thuyết này. Vì vậy, có thể khẳng định rằng: gửi gắm tư tưởng nhân văn của mình qua thế giới trẻ thơ - thế giới hồn nhiên, trong sáng nhất, là thành công của Thạch Lam cũng như Hồ Anh Thái và số đông nhà văn khác.

Ở nhân vật thằng Cá, Hồ Anh Thái đã rất tinh tế và sâu sắc khi thể hiện tính nghịch dị ở nhân vật không chỉ bằng sự phóng đại về một hình hài nửa người, nửa vật mà còn bằng sự đối lập, tương phản giữa hình hài kì dị ấy với một tâm hồn đẹp, trong sáng, giàu yêu thương. Chính vì thế mà những trang viết về thằng Cá giọng văn lạnh lùng, sắc sảo thường thấy ở Hồ Anh Thái bỗng chùng xuống, nghiêm túc, nhẹ nhàng, đầy cảm xúc thương yêu. Và dường như “Thế giới buông chùng. Độc giả cúi đầu bên giường bệnh của thằng bé những phút cuối cùng. Giữa thế giới ngả nghiêng kia, cổ tích phải cuốn gói ra đi đến một vùng trời khác.” [16]. Vì vậy có thể khẳng định rằng, nhân vật

Một phần của tài liệu Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết mười lẻ một đêm của hồ anh thái (Trang 27 - 37)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(61 trang)