Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái
3.1. Cách đặt tên nhân vật
Tên nhân vật là một trong những yếu tố làm nên nhân vật, trong đó thể hiện những đặc điểm, tính cách của nhân vật. Khi nhà văn đặt tên cho nhân vật tức là đã có ý thức, có quan niệm về con người, nhất là đối với nhân vật
“có vấn đề”. Có thể xem tên nhân vật là một hoán dụ, ước lệ về chính nhân vật ấy.
Với Hồ Anh Thái ta có thể tìm thấy nhiều điều độc đáo, thú vị qua cách đặt tên nhân vật của nhà văn. Hồ Anh Thái thường dùng những cái tên chẳng ra tên, những cái tên chỉ là những ký hiệu, thậm chí là những cái tên rất xấu.
Trần Thị Nguyệt 47 K32C - Ngữ Văn Kiểu đặt tên rất xấu cho nhân vật hay gọi tên nhân vật như những ký hiệu bằng các đặc điểm nổi bật, trước Hồ Anh Thái đã có người làm. Trước đây đã có những Tuýpphờnờ, Hoàng Hôn, Văn Minh, … trong Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng; những Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận, Trạch Văn Đoành, … của Nam Cao; … Đấy đều là những cái tên “có vấn đề” đều thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Nhưng đến với Hồ Anh Thái thì nó trở nên phổ biến hơn, trở thành một hệ thống và được tác giả dùng như một thủ pháp nghệ thuật khá quan trọng, thể hiện ý đồ nghệ thuật.
Trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm, Hồ Anh Thái đã không ngần ngại khi trao cho nhân vật của mình những cái tên như những ký hiệu lấy ra từ đặc điểm về nghề nghiệp, chức vụ, ngoại hình, sở thích, … của các nhân vật này.
Đó là hoạ sĩ Chuối Hột, bà Mẹ, cô Mơ Khô (người đàn bà), giáo sư Một (Xí), giáo sư Hai (Khoả), Vị cứu tinh sành điệu, ông Víp, thằng Cá, bà Chín Yến (Cá Voi), Madam, …hay những cái tên không ra tên như: người đàn ông, người đàn bà, Bà mẹ,… Trong những tập truyện ngắn gần đây của anh như:
Tự sự 265 ngày và Bốn lối vào nhà cười, ta cũng bắt gặp những cái tên kiểu như vậy, nào là Chín Triệu, Ba Triệu, Hai Triệu và Bóng Rổ trong truyện ngắn cùng tên; nào là Thỏ Non, Bạch Cốt Tinh (Bãi tắm); nào là Số Một, Số Hai, Số Ba, Số Bốn (Tờ khai visa); nào là Dăm Bông, Xúc Xích, Sâm Banh (Vẫn tin vào chuyện thần tiên); nào là Dê Tô, A, Bê, Xê (Cây hoàng lan hoá thành cây si); nào là Cá Sấu 1, Cá Sấu 2 (Trại cá sấu), … Những cái tên có vẻ không hợp với tập quán của người Việt ta nhưng chúng lại có ý nghĩa thể hiện dụng ý của tác giả khi xây dựng nhân vật. Nó nhấn mạnh những nét tính cách khác thường của các nhân vật đang đại diện cho đủ loại người trong xã hội. Qua chúng, người đọc có cái nhìn sâu sắc hơn về một bộ phận người Việt Nam đang bị biến chất, sống mất chuẩn, tha hoá trong xã hội thời mở cửa. Hai giáo sư Khoả và Xí (còn gọi là giáo sư Một và Hai) đại diện cho những nét
Trần Thị Nguyệt 48 K32C - Ngữ Văn nghịch dị của giới trí thức trong Mười lẻ một đêm. Tên hai ông giáo sư này lúc nào cũng gắn liền với nhau như cặp bài trùng để làm nên những giai thoại nực cười kiểu như: “Có lần giáo sư Xí đến gọi giáo sư Khoả đi họp đột xuất.
Không gặp, ông Xí lấy phấn trắng viết lên cửa nhà ông Khoả một lời nhắn:
Khoả thân đến ngay nhà Xí để họp. Nhớ mang theo giấy (…) Toàn tổ sẽ họp ở nhà Xí lúc 9 giờ” [14; 204]. Không ai khác, chính nhân vật này đã tự lột trần mình trước thiên hạ bằng tên mình. Còn một cái tên nữa cũng gây ấn tượng không kém, đó là hoạ sĩ Chuối Hột (hoặc hoạ sĩ Trồng Cây Chuối). Sở dĩ nhân vật này có cái tên đặc biệt và “gợi hình ảnh” như vậy là vì nó gắn với sở thích nghịch dị của anh ta. “Trong một góc nhà gã chống đầu xuống đất, hai chân duỗi thẳng lên trời, thân người bóng nhẫy, trắng lôm lốp như thân chuối. Tất nhiên chuối hột chổ hoa ở quãng lưng chừng trời” [14; 22]. Với sở thích quái dị như vậy thì cái tên đó không chỉ phù hợp với nhân vật mà còn tạo nên ấn tượng mạnh đối với bạn đọc, gợi mở về bản chất con người của nhân vật, … Nhìn chung tên của những nhân vật kiểu này đều có khả năng tự biểu hiện rất cao.
Bên cạnh còn là những cái tên như Mađam - Phu nhân của một quan chức cấp cao, ông Víp - “Một nhân vật chỉ mới nghe tên đã biết thế lực thế nào” [14; 12].
Đó còn là cái tên của nhân vật Vị cứu tinh sành điệu - thằng bé hàng xóm. Trong lúc người đàn ông và người đàn bà bị nhốt, thực phẩm không còn nữa, không có cách nào để được giải thoát thì thằng bé hàng xóm xuất hiện ở ban công bên cạnh như một vị cứu tinh. Nó lặng lẽ cung cấp những thứ mà hai người yêu cầu, đặc biệt là thoả thuận cuối cùng, thoả thuận quan trọng nhất - giải phóng cho hai người một cách an toàn, bí mật. Đó là một thằng bé
“Vẻ mặt mười lăm tuổi. Cái đầu xịt gôm sành điệu tuổi mười tám. Tóc nhuộm vàng vuốt gôm tua tủa dựng ngược như đinh guốc. Cái huýt sáo lấc cấc tuổi
Trần Thị Nguyệt 49 K32C - Ngữ Văn hai mươi.” [14; 224]. Với những đặc điểm, hành động như vậy thì cái tên “Vị cứu tinh sành điệu” mà Hồ Anh Thái đã dành cho nhân vật này là rất chuẩn, rất ấn tượng, nói lên đúng bản chất của đối tượng.
Như vật, tên gọi có vẻ trừu tượng nhưng đạt hiệu quả không hề thua kém việc khắc hoạ nhân vật qua ngoại hình hay qua ngôn ngữ. Khả năng tự biểu hiện của những cái tên này rất cao, người đọc đã có thể hình dung được bản chất, đặc điểm nối bật về tính cách, lối sống mà chưa cần đi sâu vào chi tiết hay hành động của nhân vật. Hồ Anh Thái đã có dụng ý xây dựng nhân vật có tính chất đại diện cho một loại người nào đấy trong xã hội, có sức khái quát rất lớn. Dường như anh muốn xoá nhoà cá tính của từng nhân vật, cá nhân cụ thể để chỉ ra đặc tính chung của một loại người trong xã hội. Từ đó nhà văn dẫn người đọc đi tới nhận thức về cuộc sống. Đây là một thủ pháp đắc địa được anh sử dụng thành công. Đó là những con người sống thiếu bản sắc, dễ hoà tan, sống hời hợt, nhợt nhạt, thể hiện sự nhố nhăng lai tạp của đời sống hiện đại. Cách gọi tên nhân vật kiểu này có tác động lớn bởi nó thực sự đã “động chạm” đến nhiều con người trong xã hội, đến nhiều người đọc vì có thể thấy bóng dáng của mình trong đó. Với tầm bao quát rộng về đời sống, với kiểu gọi tên nhân vật độc đáo đã đem lại ấn tượng sâu sắc đối với bạn đọc, Hồ Anh Thái là một nhà văn đầy trách nhiệm với cuộc đời.