Nhân vật lưỡng diện, đa diện

Một phần của tài liệu Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết mười lẻ một đêm của hồ anh thái (Trang 37 - 46)

Chương 2: Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái

2.2. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái

2.2.2. Nhân vật lưỡng diện, đa diện

Nhân vật lưỡng diện, đa diện là khái niệm dùng để chỉ những nhân vật không phải chính diện cũng không hẳn phản diện. Đây là kiểu nhân vật sống giữa ranh giới: thiện - ác, ánh sáng - bóng tối. Loại nhân vật này thường bị đặt vào những tình huống có sự mâu thuẫn giữa thực tại với khát vọng và lí tưởng.

Như chúng ta đều biết sau 1975, đặc biệt là sau 1986, đất nước đã có những đổi mới trên nhiều phương diện trong đó có đời sống văn hoá, tư tưởng. Và một trong những đổi mới cơ bản trong văn học là đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người. Không còn cái nhìn một chiều “ta tốt, địch xấu”, “ta thắng, địch thua”, “ta thông minh, địch ngu dốt”,… của những năm đất nước còn chiến tranh nữa mà thay vào đó là cái nhìn đa chiều về con người. Nhà văn đã thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người một cách đa chiều, toàn diện hơn. Họ đưa vào trong các sáng tác của mình hình tượng con người có cả phần tốt và phần xấu, đúng như nó vốn có. Họ thể hiện phần “con người bên trong con người” ở mỗi nhân vật. Từ đó mà các tác giả đã giúp người đọc nhận thức lại chính mình, bản ngã của mình để sống tốt hơn, sống Người hơn.

Nhà văn Hồ Anh Thái trong một lần trả lời phỏng vấn đã khẳng định:

Nhân vật của tôi không có người hoàn toàn tốt hoặc hoàn toàn xấu. Ngay cả khi giễu nhại thì tôi cũng thấy trong đối tượng có cả hình bóng của chính mình và người thân của mình.”[6]. Vì thế trong các sáng tác của Hồ Anh Thái hầu hết các nhân vật đều là nhân vật lưỡng diện, đa diện.

Trần Thị Nguyệt 38 K32C - Ngữ Văn Trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm, các nhân vật được Hồ Anh Thái xây dựng phần lớn là nhân vật lưỡng diện, đa diện. Kể cả những nhân vật được coi là nhân vật nghịch dị thì bên cạnh những mặt hạn chế có phần quái đản, tha hoá,… vẫn có mặt tốt - phần mang tính người trong mỗi nhân vật đó.

Song các nhân vật lưỡng diện, đa diện tiêu biểu phải kể đến hai nhân vật đó là người đàn bà và người đàn ông. Bên cạnh đó còn có nhân vật cô bạn thân hay nhân vật Madam, cô gái miền rừng,…

Thứ nhất là với nhân vật người đàn bà - nhân vật “bị nhốt” cùng với người đàn ông để rồi từ tình huống oái oăm ấy, xoay quanh tâm sự của hai người các nhân vật khác lần lượt xuất hiện với vô vàn những câu chuyện cười ra nước mắt - chuyện đời nay.

Trước hết, ta cần phải khẳng định rằng nhân vật người đàn bà có rất nhiều phẩm chất tốt đẹp. Chị là con của nhân vật Bà mẹ. Nếu Bà mẹ là một người phụ nữ lẳng lơ, dâm đãng, tham lam thì chị hoàn toàn ngược lại: “Mẹ tuổi về hưu mà nhuận sắc mà quyến rũ. Con thua mẹ mười chín tuổi thì khô khan nghiêm nghị không đàn ông nào dám nhìn lâu. Đàn ông đến chơi nhà chỉ đối đáp tung hứng với mẹ. Con gái thì nghiêm trang ra vào như phụ huynh.” [14; 55]. Không được hạnh phúc như những đứa trẻ khác, tuổi thơ của chị “như một con thuyền. Lênh đênh. Nay bến này mai bến khác. Bao nhiêu lần chuyển nhà. Mỗi lần mẹ có một người đàn ông mới là một lần chuyển nhà. Con dại cái mang, mẹ đi đâu là mang con theo đấy, tất nhiên rồi.

Cũng vì vậy mà con bé phải chứng kiến tất cả các thể loại đàn ông của mẹ.

Mẹ dại con lang thang.” [14; 63]. Chịu nhiều thiệt thòi vất vả như thế nhưng chị vẫn trưởng thành có học thức và có nguyên tắc sống đúng đắn. Là một sinh viên đại học “xinh xắn cao ráo” [14; 107] nhưng chị không dễ bị sa vào thứ tình yêu dễ dãi, vụ lợi, bởi thế “cuối tuần không về với mẹ thì chỉ còn ngồi lại một mình trong phòng.” [14; 107].

Trần Thị Nguyệt 39 K32C - Ngữ Văn Chị còn là một người giàu lòng bao dung và yêu thương. Trước những lỗi lầm của mẹ, chị vẫn bao dung, vị tha: “Lâu lâu mẹ lại sa vào tình yêu mới, lại rạc người đi ăn đi chơi đi nhảy nhót. Lại đi qua đêm. Con gái ở nhà bồn chồn ra ngóng vào trông. Chong đèn thức đợi mẹ về mở cửa lúc nửa đêm. Rồi quá sức chịu đựng, con đi đánh cho mẹ chìa khoá riêng, về lúc nào tự vào lúc ấy. Lâu lâu quá mù ra mưa, mẹ lại đi lấy chồng một bận. Lấy rồi mới biết mình sai. Sai thì sửa. Lỡ bước sa chân, thất thểu quay về trong thất bại đắng cay. Con gái lại mở rộng vòng tay bao dung ra đón mẹ trở về. An ủi khuyên giải cho nguôi dần đi.” [14; 55]. Liệu đã mấy người con làm được như chị?

Trước chuyện cô bạn thân lấy biệt danh của chị để kí tên cho bài báo tường tìm tình nhân của mình chị không hề giận dữ mà còn đưa người đàn ông đến với bạn của mình. Đó là hành động xuất phát từ bản chất tốt đẹp. Vì thế mà:

“ Sau này nhiều lúc cô không hiểu sao ngay lập tức mình hành động rộng lượng như thế. Nếu ghìm giữ anh chàng lại cho riêng cô, một thời gian sau cô cảm mến anh thực sự, thì biết đâu giữa hai người mới thực sự là cả một nhân duyên.” [14; 117]. Và chính từ hành động ấy mà người đàn ông “càng tin càng trọng cô vì lẽ ấy. Trung thực. Không ghen ghét đàn bà thường tình….

[14; 118]. Với thằng Cá - con riêng của chồng, chị cũng hết lòng yêu thương.

Trong khi mọi người, kể cả người mẹ sinh ra thằng Cá sợ hãi trước hình hài của nó thì chị lại là người gần gũi, chia sẻ và yêu thương nó. “Các thầy cô ở trường trẻ em khuyết tật cứ đồng thanh xuýt xoa kiếm đâu ra được người đàn bà thương con chồng như vậy. Thương thực lòng chứ không phải như một số madam biểu diễn còn hơn nghệ sĩ nhân dân.” [14; 311].

Với người chồng của mình - ông Víp, chị không có tình yêu nhưng là một người vợ có trách nhiệm. Chị sửa cho ông thói quen xấu: “Ông dần dần bỏ được thói quen nhắm mắt diễn thuyết. Chỉ đôi khi cố tật trở về. Tỉ lệ một phần mười. Người xưa nói đóng cửa dạy chồng. Chị là tấm gương cho những

Trần Thị Nguyệt 40 K32C - Ngữ Văn người phụ nữ lấy được chồng sang, sau đó thì làm cho chồng sang thực sự.”

[14; 267].

Đó là những mặt tốt - phần thiện ở nhân vật người đàn bà này. Bên cạnh đó trong con người chị vẫn còn những mặt hạn chế - phần thuộc về con người tự nhiên. Như đã nói ở trên, chị là một người “nghiêm túc, chín chắn”

[14; 55]. Chị quý trọng, biết ơn nhân vật người đàn ông nhưng trong suốt mười sáu năm chị chỉ coi anh như một người bạn, một người anh. Nhưng mười sáu năm sau, khi đã là vợ của ông Víp rồi chị lại quyết định hẹn với người đàn ông để “trao thân cho anh” [14; 115]. Chị đã vượt qua cả luân lí đạo đức của xã hội, đặc biệt khi chị là “vợ một ông lớn, một mệnh phụ phu nhân, thuộc loại danh gia vọng tộc bắc bậc kiêu kì.” [14; 12] để vụng trộm hẹn hò với người đàn ông. Dường như lí trí đã đầu hàng cảm xúc, con người tự nhiên chiến thắng con người xã hội khiến chị hành động như vậy. Vì thế mà Hồ Anh Thái đã có một nhận định: “Thế là không bao giờ có tình bạn thực sự giữa đàn ông và đàn bà.” [14; 176].

Chị cũng là một người đàn bà quá nhiều tham vọng. Là con của một bà mẹ “thuộc thành phần bình dân hoang dại" [14; 58] nhưng “trong thâm tâm từ khi bắt đầu là một thiếu nữ có ý thức, chị đã luôn nghĩ mình là con nhà lá ngọc cành vàng. Mình thuộc đẳng cấp trên.” [14; 251]. Chị lấy ông Víp làm chồng cũng vì mục tiêu ấy, vị trí ấy. “Giữa hai lần gặp thì đã có quyết tâm của cô. Cô sẽ lấy bằng được bố của thắng Cá. Bất kể hình thức của ông ra sao. Ông có đôi chân dính như chân thằng bé thì cô cũng lấy. Một ông Víp cơ mà.” [14; 301]. Bởi lấy ông Víp, chị được “dung nạp vào một tổ chức không chính thức của các bà phu nhân” [14; 188], chị trở thành “Vợ một ông lớn, một mệnh phụ phu nhân thuộc loại danh gia vọng tộc bắc bậc kiêu kỳ” [14;

12]. Công danh sự nghiệp của chị cũng nhờ đó mà thăng tiến không ngừng.

“Một điều không thể từ chối là công danh của riêng chị. Lấy ông Víp được

Trần Thị Nguyệt 41 K32C - Ngữ Văn năm năm rồi, đường công danh của chị trở thành đường cao tốc. Loại đường vận tốc tự do, không có cảnh sát đứng bên đường bắn tốc độ.” [14; 201].

Chị là người sẵn sàng đem tất cả những thứ quà biếu đắt tiền mà cấp dưới “cống nộp” cho chồng mình để cho trẻ em khuyết tật: “Một bộ giàn karaôkê. Mấy cành đào cho các cháu trang trí hái hoa điều ước đầu xuân. Cả đống vật dụng gia đình để nguyên trong những cái hộp chị cho hết. Trường khuyết tật phải cho xe tải đến nhận quà về.” [14; 199]. Chị làm điều đó bởi vì chị không muốn nhận những quà đút lót, hối lộ của cấp dưới. “Nhưng mà suy cho cùng chị đi mua đất đồi mua trang trại chị vẫn phải lấy tiền của ông. Chị đâu có từ chối số tiền trong thu nhập của ông.” [14; 200]. Mà thu nhập của ông Víp từ đâu mà có nhiều đến như vậy? Một cách gián tiếp chị vẫn đồng loã với nạn tham ô, hối lộ đang diễn ra trong xã hội hiện đại.

Như vậy có thể nói, trong nhân vật người đàn bà có cả mặt tốt lẫn mặt xấu. Tất cả làm nên sự phong phú, sinh động, làm cho nhân vật này gần với con người thực hơn - con người đời thường.

Còn nhân vật người đàn ông thì sao? Anh chính là nhân vật "bị nhốt"

cùng với người đàn bà trên căn hộ tầng sáu chung cư chất lượng cao. Trong mối quan hệ với nhân vật người đàn bà, anh vừa như một người bạn, vừa như một người anh lại vừa như một tình nhân. Anh có tình cảm với chị ngay từ những ngày đầu gặp gỡ. “Mười sáu năm. Bằng ấy thời gian quen nhau, thực ra anh dần dần yêu mến chị hơn.” [14; 117]. Nhưng vì tôn trọng quyết định của chị, anh đã phải giữ khoảng cách đúng mực là một người anh đối với chị trong vòng suốt mười sáu năm. Vì thế có những lúc “anh chỉ muốn ôm lấy cô.

Gọn trong lòng. Cô yếu đuối thì cứ lộ nguyên hình yếu đuối đi. Anh che chở.

San sẻ nữa. Nhưng rồi anh kìm lại.” [14; 249]. Có thể nói trong tình yêu anh dành cho chị có cả sự tôn trọng, cảm phục lẫn thương yêu. Và phải đến mười sáu năm sau khi chị hẹn gặp anh ở căn hộ của hoạ sĩ Chuối Hột thì hai người

Trần Thị Nguyệt 42 K32C - Ngữ Văn mới “trao thân cho nhau” [14; 8]. Điều đó chứng tỏ anh là một người đàn ông có thái độ nghiêm túc trong chuyện tình cảm. Không những thế anh còn giúp đỡ chị về mặt vật chất, anh chu cấp hàng tháng cho chị. Để cho chị bằng lòng nhận mà không ái ngại “thỉnh thoảng anh đưa một vài văn bản du lịch tiếng Anh nhờ cô dịch. Anh muốn để cô yên tâm phần nào về sự tài trợ.” [14; 153].

Hành động như vậy thì anh quả là người tế nhị và tâm lí.

Với cách xử sự ấy, hành động ấy phải chăng anh là một người đàn ông cao thượng, không có những đam mê nhục dục thường tình? Nhưng đó chỉ là một phần trong con người anh. Anh cũng như mọi người đàn ông bình thường khác, anh cũng có những ham muốn - cái thuộc về phần “con”, phần bản năng trong mỗi con người. Cũng chính vì thế mỗi khi “phải kiềm chế dục vọng để thực hiện từng bước tuần tự thì anh chàng toát mồ hôi” [14; 113]. Chi tiết anh

“toát mồ hôi” xuất hiện nhiều lần chứng tỏ anh đã phải “kiềm chế” rất nhiều.

Đó là do lí trí kiểm soát phần bản năng trong con người anh. Và phải chăng cũng vì thế mà anh đã cặp bồ với cô bạn thân của nhân vật người đàn bà, một mặt là để giúp cô về mặt vật chất mặt khác là để thoả mãn người đàn ông trong anh. “Có bồ” tức là phản bội người vợ của mình, phản bội gia đình, tức là anh đã đi ngược lại với luân lí đạo đức của xã hội là phải chung thuỷ một vợ một chồng. Đó là điều không thể chấp nhận, là cái không tốt của người đàn ông này. Song hành động đáng trách ấy có phần được giảm nhẹ và dễ thông cảm hơn vì anh đã đối xử tốt với gia đình, với vợ con: “Anh vẫn muốn vừa tốt với gia đình vừa tốt với bạn bè.” [14; 123]. Anh không bỏ vợ, vẫn có trách nhiệm với vợ con. Anh trực tiếp đưa con trai đi du học vì không tin tưởng bất cứ một ai. Và đặc biệt anh rất “đàng hoàng đàn ông. Không bao giờ khoe khoang bồ bịch giữa đám bạn đàn ông.” [14; 124].

Trong công việc cũng như nghề nghiệp anh là một người thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát và mưu trí. Anh đã làm nên cơ nghiệp từ đôi bàn tay và

Trần Thị Nguyệt 43 K32C - Ngữ Văn khối óc của mình. Từ mấy quả đồi anh đã biến nó thành khu du lịch sinh thái thu hút rất nhiều khách du lịch nước ngoài. Đó cũng là do anh có một quan niệm hết sức đúng đắn: “Chỗ làm thì đừng chơi chỗ chơi thì đừng làm” [14;

161]. Nhưng đồng thời anh vẫn là một người sống rất cơ hội. Anh thu lợi, kiếm lời từ sự kém hiểu biết của người khác. Với giới văn nghệ sĩ “ngây thơ và là một bồ hoang tưởng” [14; 163] anh đã mở các dịch vụ như: mở phòng tranh, nhà sách, dịch vụ điện ảnh để cho họ thuê. Để rồi “đứa nào hoang tưởng đứa ấy chết. Tiền dịch vụ thì anh đã thu rồi” [14; 164]. Cũng từ đó mà anh trở thành một nhà phê bình nghệ thuật, một nhà hùng biện nổi tiếng mà không cần qua bất kì trường lớp nào.

Như vậy có thể nói, ở nhân vật người đàn ông cái tốt và cái xấu đan xen rất khó phân biệt. Ở nhân vật này vừa có cái đáng khâm phục, trân trọng cũng vừa có cái đáng trách, đáng phê bình.

Bên cạnh đó còn phải kể đến các nhân vật lưỡng diện, đa diện khác như: cô bạn thân, Mađam, cô gái miền rừng,... Họ đều là những người tồn tại trong mình cả cái tốt lẫn cái xấu. Đó là cô bạn thân vì muốn có tiền ăn học đã chấp nhận làm nhân tình với người đàn ông đã có gia đình. Nhưng cô cũng là người trọng tình cảm, sống có trước có sau và rất thuỷ chung. Mặc dù người đàn ông đã “biệt tích” nhưng cô vẫn chờ anh, trông coi công ty cho anh, “cô bảo được một tấm chồng như thế thì vợ nào chẳng xót chẳng thương.” [14;

335].

Đó là nhân vật Mađam - phu nhân của một quan chức cấp cao Nhà nước, là một thành viên trong hội “khai hoang” của các bà phu nhân. Bà là người đã dìu dắt, hướng dẫn tập sự cho người đàn bà làm phu nhân. Bà là một phu nhân cấp cao nhưng lại có hành động rất nhỏ mọn, tham lam cả những cái vặt vãnh. Trong lúc dự tiệc đứng của Đại sứ quán nước ngoài chiêu đãi bà đã tranh thủ “nhón” được hai cái đĩa sứ bỏ vào túi. Hành động này có xứng đáng

Trần Thị Nguyệt 44 K32C - Ngữ Văn với một phu nhân cán bộ Nhà nước hay không? Đây là một chi tiết được Hồ Anh Thái phóng đại, giễu nhại rất có ý nghĩa. Độc giả bật cười khinh bỉ trước hành động tham lam những thứ rất vụn vặt như thế của Mađam. Cái tham của bà còn thể hiện ở việc bà cùng với các bà phu nhân khác tranh thủ vào địa vị của chồng để mua đất lập trang trại và tự gọi mình là hội “khai hoang”. Nhưng bên cạnh con người tham lam, vụ lợi ấy bà con là một người hết sức “hồn nhiên (…) Thực bụng. Tốt bụng” [14; 191]. Tiêu biểu là việc: “Dịp Tết, bà vơ lá trong khu biệt thự, sai người chặt cành mấy cây cổ thụ trong vườn làm củi đun bánh chưng. Nổi lửa lên em nổi lửa lên em. Bà hát. Nghi ngút. Tưng bừng từ khi chưa đun cho đến khi dỡ bánh. Rồi bắt ông ngồi xe cùng bà, dung dăng dung dẻ đi từng nhà, mỗi nhà cho một cặp. Chị cũng được một cặp.

Chồng bà còn là cấp trên của chồng chị, bà chẳng việc gì phải tranh thủ. Bà quý thì bà cho. Coi như em út trong nhà thì bà cho. Thế thôi.” [14; 191 - 192].

Tính lưỡng diện, đa diện còn thể hiện ở nhân vật cô gái miền rừng - người đã “cướp mất” người chồng thứ tư của nhân vật Bà mẹ. Cô là một cô gái “có cả nhan sắc lẫn chè lá hút xách” [14; 83] nhưng bị người cha bắt lấy một người lớn tuổi đã có vợ để gán trừ nợ. Lấy chồng được hai năm thì cô bỏ trốn về thủ đô, “chơi bời cho nát nước nát cái” [14; 84]. Cô đã quyến rũ, cặp bồ và “cướp mất” anh chàng huấn luyện viên - chồng của nhân vật Bà mẹ. Cô đã từng đánh cho bà vợ cả bốn mươi chín tuổi “một trận tơi bời” [14; 84] để rồi sau đó lương tâm trỗi dậy khiến cô hối lỗi: “Tan cuộc hỗn chiến ngoài sân, vợ trẻ dìu vợ già vào nhà, băng bó cho, lau mặt cho.” [14; 84].

Nhân vật lưỡng diện, đa diện được Hồ Anh Thái nhào nặn dựa trên cơ sở những chất liệu của cuộc sống đời thường. Nhà văn đã mạnh dạn đưa cái hàng ngày vào văn học, từ đó khái quát lên tầm tư tưởng hết sức đúng đắn, tiến bộ. Hồ Anh Thái như muốn khẳng định một thực tế hiển nhiên: Trong

Một phần của tài liệu Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết mười lẻ một đêm của hồ anh thái (Trang 37 - 46)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(61 trang)