Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của Ngân hàng thương mại Việt Nam
1.1. HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ KINH DOANH TRÁI PHIẾU CỦA NGÂN
1.1.3. Mô hình tổ chức hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM
- Đối với bộ phận kinh doanh (Front Offices), ngân hàng thường chia ra làm 2 bộ phận chính chuyên biệt:
+ Bộ phận hoạt động phục vụ cho thanh khoản toàn hệ thống: Bộ phận này chịu trách nhiệm thực hiện các giao dịch nhằm hỗ trợ việc quản lý thanh khoản hàng ngày hoặc phục vụ thanh khoản trung-dài hạn của hệ thống nhằm đảm bảo khả năng chi trả và giảm thiểu rủi ro thanh khoản của ngân hàng. Hoạt động này không mang tính chất tự doanh, đầu cơ hay môi giới.
+ Bộ phận kinh doanh (Trading): Bộ phận hoạt động kinh doanh dùng vốn của ngân hàng để kinh doanh bằng cách áp dụng các chiến thuật đầu tư khác nhau để nắm giữ các trạng thái đầu tư căn cứ vào các phán đoán về thị trường. Hoạt động kinh doanh áp dụng cho tất cả các loại sản phẩm tài chính bao gồm cả trái phiếu niêm yết, trái phiếu không niêm yết.
Sơ đồ 1.1: Mô hình tổ chức hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của Ngân hàng thương mại
- Đối với bộ phận nghiên cứu & kiểm soát rủi ro (Middle offices), ngân hàng thường chia ra làm 2 bộ phận chuyên biệt:
+ Bộ phận kiểm soát rủi ro là bộ phận có trách nhiệm kiểm soát giám sát hoạt động của các giao dịch viên tại front offices. Các NHTM thường quy định rất khắt khe về quy trình thực hiện giao dịch, về những hạn mức mà giao dịch viên được phép đầu tư kinh doanh. Bộ phận kiểm soát rủi ro hình thành với mục tiêu đảm bảo tất cả những quy định đó được tuân thủ một cách nghiêm túc. Bộ phận này thường xuyên cập nhật trạng thái đầu tư kinh doanh cho từng trái phiếu, từng loại rủi ro cho
từng cán bộ thuộc bộ phận kinh doanh. Trường hợp có bất cứ một sự vi phạm nào, bộ phận kiểm soát rủi ro phải phát hiện ra và đưa ra những hình thức ngăn chặn hoặc xử lý thích hợp. Về cơ cấu tổ chức, bộ phận kiểm soát rủi ro cũng có thể chia thành các nhóm quản trị rủi ro khác nhau như: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động.
+ Bộ phận nghiên cứu là bộ phận nghiên cứu và phân tích về những yếu tố tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự biến động của các loại trái phiếu trên thị trường, nhằm giúp bộ phận kinh doanh có thể ra được quyết định mua bán của mình một cách linh hoạt kịp thời. Các sản phẩm nghiên cứu của bộ phận này rất đa dạng, bao gồm các báo cáo nghiên cứu chung như kinh tế vĩ mô, nghiên cứu ngành, nghiên cứu chiến thuật đầu tư và nghiên cứu sản phẩm v.v.
- Đối với bộ phận xử lý giao dịch (Back office): là bộ phận xử lý giao dịch có nhiệm vụ xử lý các giao dịch trái phiếu. Về cơ bản, các cán bộ xử lý giao dịch đòi hỏi các hiểu biết về sản phẩm, nghiệp vụ đầu tư kinh doanh trái phiếu cũng như chi tiết các thủ tục hoạt động như quy trình luân chuyển chứng từ, hạch toán sản phẩm, xác nhận, thanh toán và lưu ký trái phiếu. Bộ phận này có nhiệm vụ ghi chép, phản ánh và lưu trữ toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh từ khi phát sinh, quá trình phát triển, kết thúc và tồn tại. Đồng thời bộ phận này cũng phục vụ cho các nhân viên ở bộ phận kinh doanh về số liệu, chứng từ, hồ sơ của những nghiệp vụ có liên quan. Số liệu này còn giúp cho cán bộ kế hoạch kiểm tra và giám đốc ngân hàng theo dõi kết quả kinh doanh, nhận định tình hình và đề ra những chủ trương thích hợp về phương hướng hoạt động của ngân hàng, phát triển sản phẩm này, thu hẹp sản phẩm khác, quan hệ với các ngân hàng bạn, quan hệ với ngân hàng trung ương.
Sự phối hợp giữa các bộ phận này phải nhịp nhàng và thống nhất. Sự nhịp nhàng và thống nhất thể hiện ở chỗ khi những giao dịch phát sinh tại bộ phận front office thì ngay lập tức bộ phận kiểm soát phải được cập nhật và nắm bắt để có thể kiểm định những hạn mức và đánh giá các mức độ rủi ro phát sinh. Bộ phận back office cũng cần phải làm hợp đồng và nhận hợp đồng giao dịch kịp thời, đảm bảo việc hạch toán chuyển tiền theo đúng quy định. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả hoạt động và hạn chế rủi ro, các bộ phận này sẽ do các lãnh đạo khác nhau (mang
tính độc lập, riêng biệt) kiểm soát và phê duyệt các giao dịch hay các vấn đề phát sinh liên quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận.
Hơn nữa, hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của các ngân hàng này không những chỉ thực hiện trong phạm vi các sản phẩm và đối tác trong nước mà còn phát triển ra phạm vi ngoài lãnh thổ. Để thực hiện điều này, các ngân hàng xây dựng các chi nhánh của mình hoạt động trên các quốc gia khác, và chịu trách nhiệm thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại mỗi quốc gia đó trong các hạn mức cho phép. Các chi nhánh của ngân hàng luôn có mối quan hệ và phối hợp chặt chẽ trong hoạt động dựa trên lợi thế riêng của từng chi nhánh. Chẳng hạn đối tác của chi nhánh A muốn mua trái phiếu được phát hành tại quốc gia B, thì chi nhánh A sẽ phối hợp với chi nhánh tại quốc gia B (chi nhánh B) để tìm kiếm trái phiếu và giao dịch với đối tác này.
1.1.4. Phân loại và chiến lược thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại
Nhìn chung nghiệp vụ đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM bao gồm nhiều hoạt động cụ thể, có thể phân loại theo các tiêu chí cơ bản khác nhau, tương ứng với các chiến lược đầu tư kinh doanh khác nhau. Mặt khác, tùy thuộc vào từng chiến lược đầu tư kinh doanh khác nhau thì sẽ có phương thức, điều kiện, loại hình và thị trường đầu tư kinh doanh tương ứng. Cụ thể:
1.1.4.1. Phân loại theo chủ thể phát hành trái phiếu a. Các loại hình đầu tư kinh doanh
- Đầu tư kinh doanh Trái phiếu chính phủ: Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Ngân sách nhà nước hoặc làm công cụ điều tiết thị trường tiền tệ, Chính phủ các nước thường phát hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội. Trái phiếu Chính phủ là một loại chứng khoán nợ, có thời hạn, mệnh giá, lãi suất, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu Chính phủ bao gồm các loại hàng hóa cơ bản bao gồm:
+ Tín phiếu Kho Bạc (T-bill): là một loại trái phiếu do Kho bạc Nhà nước phát hành có thời hạn dưới 1 năm phát hành dưới dạng chiết khấu (Trả lãi trước).
Trái chủ sẽ được nhận toàn bộ giá trị danh nghĩa của mệnh giá khi đáo hạn.
+ Trái phiếu Kho bạc (T-bond): là loại trái phiếu do Kho Bạc Nhà nước phát hành có thời hạn trên 1 năm, thường được trả lãi định kỳ.
Đây là loại trái phiếu hầu như ít có rủi ro thanh toán và có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm này, lãi suất của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.
- Đầu tư kinh doanh trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh: NHTM thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh đối với các loại chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát hành nhằm huy động vốn cho các công trình theo chỉ định của Chính phủ, được Chính phủ cam kết trước các nhà đầu tư về việc thanh toán đúng hạn của tổ chức phát hành. Trường hợp tổ chức phát hành không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán (gốc, lãi) khi đến hạn thì Chính phủ sẽ chịu trách nhiệm trả nợ thay tổ chức phát hành. Do vậy, hoạt động đầu tư kinh doanh loại trái phiếu này của NHTM cũng sẽ có tính an toàn cao, tính rủi ro thấp.
- Đầu tư kinh doanh trái phiếu chính quyền địa phương (Trái phiếu đô thị):
NHTM thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của chính quyền địa phương đối với người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu chính quyền địa phương phát hành nhằm mục đích để huy động vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của từng địa phương.
- Đầu tư kinh doanh trái phiếu doanh nghiệp (trái phiếu công ty): Trái phiếu doanh nghiệp là loại trái phiếu được phát hành bởi các doanh nghiệp, xác nhận nghĩa vụ thanh toán cả gốc và lãi của doanh nghiệp phát hành đối với người sở hữu trái phiếu. Mặt khác, các doanh nghiệp phát hành trái phiếu theo nguyên tắc tự vay, tự trả và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn vay, và không có sự bảo lãnh nào của Chính phủ trong việc phát hành. Trái phiếu doanh nghiệp cũng bao gồm nhiều loại:
+ Trái phiếu có đảm bảo: Đây là những trái phiếu được bảo đảm bằng những tài sản đảm bảo (là bất động sản, bảo lãnh của bên thứ 3 v.v.). Ngân hàng thương mại khi nắm giữ trái phiếu này được bảo vệ ở mức độ an toàn hơn trong trường hợp
doanh nghiệp phá sản, vì họ có quyền đòi nợ đối với một tài sản cụ thể. Tại một số quốc gia, một tài sản có thể được sử dụng làm tài sản đảm bảo cho nhiều hơn một loại nghĩa vụ nợ khác nhau, do đó phải xác định rõ thứ tự ưu tiên thanh toán của tài sản đảm bảo đối với các trái chủ.
+ Trái phiếu không đảm bảo: Đây là loại trái phiếu không được bảo đảm bằng tài sản, mà chỉ được bảo đảm bằng uy tín của doanh nghiệp, có mức độ rủi ro lớn hơn đối với trái phiếu có đảm bảo nên lãi suất cao hơn trái phiếu có đảm bảo.
Như vậy, hoạt động đầu tư kinh doanh của NHTM vào các loại trái phiếu doanh nghiệp sẽ chứa đựng rủi ro cao hơn so với đầu tư kinh doanh trái phiếu Chính phủ hoặc được Chính phủ bảo lãnh. NHTM nắm giữ Trái phiếu doanh nghiệp cần xem xét rủi ro tín dụng của chủ thể phát hành và các biện pháp tăng cường khả năng tín dụng.
b. Chiến lược thực hiện
Việc phân loại theo chủ thể phát hành như trên có vai trò rất quan trọng trong việc cân đối giữa tính thanh khoản và sinh lời của ngân hàng. Đối với các NHTM với chính sách hoạt động thận trọng ngại rủi ro, hoặc các NHTM quy mô nhỏ; hoặc các NHTM có tỷ lệ nợ xấu từ tín dụng cao v.v. thường có xu hướng tập trung đầu tư kinh doanh đối với các loại trái phiếu ít rủi ro, thanh khoản cao như trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, đồng thời hạn chế việc nắm giữ các loại trái phiếu có rủi ro như trái phiếu doanh nghiệp.
Mặt khác, nhằm mục đích đảm bảo nguồn dự trữ thanh khoản thứ cấp, các NHTM còn thực hiện chính sách nắm giữ tỷ lệ nhất định các loại trái phiếu chính phủ có tính thanh khoản cao nhất nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của ngân hàng trong trường hợp cần thiết. Ngoài ra, việc tăng tỷ lệ nắm giữ các loại trái phiếu Chính phủ ít rủi ro còn giúp cho các NHTM giảm bớt danh mục tài sản Có rủi ro, từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của các NHTM thông qua việc tăng tỷ lệ an toàn tối thiểu (CAR).
Đối với các NHTM có tiềm lực tài chính mạnh, tỷ lệ nợ xấu thấp thì chiến lược tăng tỷ lệ nắm giữ các loại trái phiếu doanh nghiệp được đánh giá là phù hợp nếu muốn thực hiện đa dạng hóa hoạt động đầu tư và tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
Tuy nhiên, các NHTM cần thực hiện tốt công tác đánh giá rủi ro tín dụng đối với chủ phát hành, đồng thời nên tập trung chọn các loại trái phiếu doanh nghiệp có định mức tín nhiệm cao nhằm hạn chế rủi ro có thể phát sinh gây tổn thất mất vốn cho ngân hàng.
Hiện nay, tại các NHTM Mỹ, hai loại trái phiếu được nắm giữ nhiều nhất trong danh mục đầu tư kinh doanh là trái phiếu Kho Bạc Mỹ và các trái phiếu chính quyền liờn bang. Cỏc loại trỏi phiếu này chiếm bỡnh quõn khoảng ắ tổng giỏ trị trỏi phiếu nắm giữ của tất cả các NHTM Mỹ [58].
Khi đầu tư kinh doanh trái phiếu, NHTM thường quan tâm đến tính thanh khoản và sinh lời. Tuy nhiên, các nhà quản trị ngân hàng tùy theo mục tiêu, chiến lược trong từng giai đoạn phải liên tục xem xét mối quan hệ đánh đổi giữa tính sinh lời và thanh khoản của các trái phiếu nắm giữ, hay xem xét tỷ trọng giữa trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp trong danh mục trái phiếu ngân hàng nắm giữ.
1.1.4.2. Phân loại theo kỳ hạn đáo hạn trái phiếu a. Các loại hình đầu tư kinh doanh
- Hoạt động đầu tư kinh doanh Trái phiếu ngắn hạn: là việc NHTM thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh các loại trái phiếu có thời hạn dưới một năm. Các loại trái phiếu có kỳ hạn ngắn bao gồm: các công cụ trên thị trường tiền tệ (Tín phiếu Kho Bạc, Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước v.v.); các loại trái phiếu có kỳ hạn đáo hạn còn lại thực dưới 1 năm. Việc nắm giữ các loại trái phiếu ngắn hạn nhằm giúp NHTM tăng khả năng dự trữ thanh khoản thứ cấp, hoặc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các trường hợp ngân hàng dư thừa vốn khả dụng ngắn hạn.
- Hoạt động đầu tư kinh doanh Trái phiếu trung - dài hạn: là hoạt động đầu tư kinh doanh các loại trái phiếu có thời hạn từ 1 năm trở lên của NHTM.
b. Chiến lược thực hiện
Trên cơ sở phân tích khả năng thanh khoản - thu nhập - rủi ro, ảnh hưởng của thuế và các yếu tố khác ngân hàng sẽ quyết định thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh đối các loại trái phiếu với các tỷ lệ nhất định theo các chiến lược phân bổ kỳ hạn. Một số chiến lược phân bổ kỳ hạn đã được các ngân hàng thực hiện trong những năm gần đây, mỗi loại đều có những ưu nhược điểm khác nhau.
- Chiến lược phân bổ kỳ hạn đều: Đây là chiến lược được áp dụng khá phổ biến, nhất là đối với những NHTM nhỏ, theo chiến lược này: trước hết, ngân hàng sẽ phải chọn kỳ hạn tối đa có thể chấp nhận được và đầu tư vào mỗi kỳ hạn trong phạm vi kỳ hạn tối đa một lượng trái phiếu như nhau.
Chiến lược này có thể không tối đa hóa thu nhập, nhưng có lợi thế là làm giảm những dao động về thu nhập và không đòi hỏi nhiều chuyên môn quản trị để thực hiện. Hơn nữa, chiến lược này hướng tới tạo dựng một sự năng động trong đầu tư kinh doanh, vì một số trái phiếu luôn ở trong trạng thái sẵn sàng chuyển đổi thành tiền để ngân hàng có thể sử dụng để đầu tư kinh doanh khi có cơ hội.
- Chiến lược tập trung kỳ hạn ngắn:
Một chiến lược thông dụng khác đối với các ngân hàng thương mại có quy mô nhỏ hoặc tình hình thanh khoản thường không ổn định là tập trung chủ yếu mua những trái phiếu ngắn hạn và đầu tư kinh doanh trong một khoảng thời gian ngắn.
Chiến lược này nhấn mạnh việc ngân hàng thực hiện giao dịch chủ yếu mục đích tạo tính thanh khoản hơn là mục đích tạo ra thu nhập, đồng thời tránh tổn thất về vốn khi lãi suất tăng.
- Chiến lược tập trung kỳ hạn dài: Đây là chiến lược có tính chất đối lập hoàn toàn với chiến lược ở trên. Một ngân hàng theo đuổi loại chiến lược này có thể quyết định chỉ đầu tư vào những trái phiếu có thời gian đáo hạn trên 5 năm. Bằng cách quan tâm đầu tư vào những trái phiếu dài hạn, ngân hàng nhấn mạnh mục đích tạo ra thu nhập. Chiến lược này sẽ phát huy được vai trò tối ưu hóa lợi nhuận từ đầu tư kinh doanh trái phiếu đặc biệt trong trường hợp lãi suất giảm. Mặt khác, để có nguồn đầu tư trái phiếu dài hạn, ngân hàng có thể sẽ chủ yếu dựa vào việc đi vay trên thị trường liên ngân hàng (thị trường II) để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
- Chiến lược Barbell: Chiến lược đầu tư vào trái phiếu trong đó thời gian đáo hạn của những trái phiếu trong danh mục đầu tư được tập trung ở 2 cực. Hay nói cách khác một chiến lược Barbell là sự kết hợp hai chiến lược tập trung kỳ hạn ngắn và chiến lược tập trung kỳ hạn dài.
Sử dụng chiến lược này yêu cầu sự chú ý liên tục từ nhà quản trị ngân hàng.
Những trái phiếu có thời gian đáo hạn ngắn cần được chuyển sang trái phiếu ngắn hạn mới ngay khi đáo hạn. Khi trái phiếu dài hạn ở giữa thời gian đáo hạn, chúng cần được chuyển sang những trái phiếu dài hạn mới.
Một điểm bất lợi của chiến lược barbell chính là chi phí giao dịch. Thêm vào đó, những trái phiếu dài hạn thường nhạy cảm hơn với những thay đổi lãi suất. Vì thế, phia gồm những trái phiếu dài hạn của danh mục đầu tư thường không ổn định