Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của Ngân hàng thương mại Việt Nam
1.2. KINH NGHIỆM HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ KINH DOANH TRÁI PHIẾU
1.2.1. Kinh nghiệm của Ngân hàng thương mại trên thế giới
Trong khuôn khổ phạm vi luận án, tác giả tập trung nghiên cứu đánh giá kinh nghiệm hoạt động này từ 02 quốc gia là Trung Quốc và Mỹ. Việc lựa chọn nghiên cứu này xuất phát bởi các lý do sau:
- Đây là những quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới, có thị trường tài
chính nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng phát triển và có tầm ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Cụ thể, tính đến thời điểm tháng 6/2014, quy mô thị trường trái phiếu Mỹ đứng thứ 1 (giá trị thị trường đạt hơn 25 nghìn tỷ USD) và quy mô thị trường trái phiếu Trung Quốc đứng vị trí thứ 3 (giá trị thị trường đạt hơn 4.2 nghìn tỷ USD) trên toàn thế giới [51].
Biểu đồ 1.1: Các quốc gia có quy mô thị trường trái phiếu lớn nhất thế giới (tính đến thời điểm tháng 6/2014)
Nguồn: Bank for International Settlements.
- Với cách thức tổ chức, quản lý hoạt động và quản trị rủi ro hiện đại được xây dựng thực hiện trong nhiều thập kỷ, hệ thống NHTM tại 2 quốc gia này đã đạt được nhiều thành công trong hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu.
- Trung Quốc là quốc gia có nhiều nét tương đồng với Việt Nam trong các
lĩnh vực văn hóa - chính trị - xã hội. Do đó việc nghiên cứu kinh nghiệm từ hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của hệ thống NHTM Trung Quốc là phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Trên cơ sở đó, luận án sẽ tổng hợp và áp dụng các kinh nghiệm có giá trị thực tiễn từ các quốc gia trên vào Việt Nam nhằm phát triển hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM Việt Nam.
1.2.1.1. Kinh nghiệm của Ngân hàng thương mại Trung Quốc
Với việc Trung Quốc chính thức gia nhập WTO vào ngày 11/12/2001, ngành Ngân hàng của Trung Quốc đã chứng kiến những thay đổi sâu sắc cùng với quá trình cải cách mạnh mẽ nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh. Các NHTM nước này đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu, đa dạng hóa các loại hình kinh doanh nhằm tăng lợi nhuận ngân hàng.
Tuy nhiên, tình hình lợi nhuận sụt giảm và tỷ lệ nợ khó đòi đang có xu hướng gia tăng đối với các Ngân hàng thương mại Trung quốc. Cụ thể, tăng trưởng lợi nhuận của ngân hàng Ping An Bank Co. Ltd đã chậm lại chỉ còn 11,3% trong nửa đầu năm 2013, so với mức tăng 45,2% cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc (CCB) có mức tăng lợi nhuận nhỏ nhất trong hệ thống ngân hàng Trung Quốc với con số 2,02% trong 6 tháng đầu năm 2013. Ngân hàng Công nghiệp Trung Quốc có tỷ lệ nợ khó đòi tăng lên 0,57%, trong khi tỷ lệ nợ khó đòi trong cùng kỳ của Bank of Commnications và CCB ở mức cao nhất 0,99%.
Năm 2014, tăng trưởng lợi nhuận của 5 NHTM lớn nhất Trung Quốc đều chậm lại ở mức một con số trong bối cảnh nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này tăng trưởng ở mức thấp nhất trong 24 năm qua. Cụ thể, lợi nhuận ròng của Ngân hàng Công Thương Trung Quốc (ICBC), Ngân hàng Trung Quốc và Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc và Ngân hàng Thông tin Trung Quốc tăng 5,07%, 8,22%, 6,1% và 5,72% năm 2014. Mức tăng trưởng này thấp hơn các số liệu tương ứng 10,17%, 12,35%, 11,11% và 6,82% của các ngân hàng trên trong năm 2013. Trong khi đó, tỷ lệ nợ xấu đang tăng với nợ khó đòi của 5 ngân hàng trên đều vượt 1% [28].
Trên cơ sở đó, ngoài những nghiệp vụ truyền thống, đòi hỏi các NHTM Trung quốc luôn tích cực mở rộng sang các loại hình đầu tư kinh doanh khác như kinh doanh ngoại tệ, đầu tư kinh doanh trái phiếu v.v nhằm tăng lợi nhuận và khả
năng cạnh tranh.
Đối với lĩnh vực đầu tư kinh doanh trái phiếu, hiện nay các NHTM Trung Quốc là những nhà đầu tư chủ yếu trên thị trường trái phiếu của nước này. Cụ thể, tại thời điểm cuối Quý III năm 2014, hệ thống ngân hàng thương mại nắm giữ khoảng 63% tổng khối lượng trái phiếu niêm yết tại thị trường trái phiếu Trung Quốc, trong khi đó các quỹ đầu tư và công ty bảo hiểm chỉ nắm giữ các tỷ lệ thấp tương ứng là 11% và 8% [59].
Biểu đồ 1.2: Cơ cấu nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu Trung Quốc tại thời điểm cuối Quý III/2014
Nguồn: www.chinabond.cn Về quy mô đầu tư
Nếu tính bình quân quy mô đầu tư kinh doanh trái phiếu của tất cả ngân hàng thương mại Trung Quốc thì cũng chiếm tỷ lệ khoảng 20% giá trị tổng tài sản, đồng thời tỷ lệ này có xu hướng tăng dần qua từng năm.
Bảng 1.2: Quy mô hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của các NHTM Trung Quốc giai đoạn 2012-T9/2014
Nguồn:KPMG–China’s banking sector: Performance of listed banks and hot topics.
Năm Số bình quân về Tỷ trọng đầu tư kinh doanh trái phiếu so với tổng tài sản của các NHTM Trung Quốc
T9/2014 21%
2013 20.2%
2012 19%
Với từng ngân hàng riêng lẻ, tỷ lệ đầu tư kinh doanh trái phiếu trong tổng tài sản phụ thuộc vào quy mô và chiến lược ngân hàng, trong đó bình quân nhóm các NHTM thuộc sở hữu Nhà nước Trung Quốc thường thực hiện chiến lược đầu tư khoảng 19%-20% so với tổng tài sản. Cụ thể:
Bảng 1.3: Quy mô hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của một số NHTM Trung Quốc giai đoạn 2012 – T9/2014 Nhóm
Ngân hàng Tên Tỷ trọng/Tổng tài sản Có
2012 2013 T9/2014 Nhóm
NHTM thuộc sở hữu Nhà
nước
Industrial and Commercial Bank of China 23.28% 22.85% 22.04%
China Construction Bank (CCB) 20.52% 22.23% 21.32%
Bank of China (BOC) 17.43% 16.26% 16.42%
Agricultural Bank of China (ABC) 21.53% 22.11% 22.29%
Bank of Communications (BCM) 16.66% 17.95% 17.75%
Nhóm NHTM cổ
phần
China Merchants Bank (CMB) 15.19% 18.84% 21.07%
China CITIC Bank (CNCB) 13.53% 17.69% 21.88%
China Minsheng Bank(CMBC) 7.54% 9.45% 12.25%
Shanghai Pudong Development Bank 15.52% 23.12% 26.87%
Industrial Bank (CIB) 12.12% 20.46% 21.91%
China Everbright Bank (CEB) 20.98% 20.42% 22.31%
Hua Xia Bank Co.,Ltd (HXB) - 11.64% 12.13%
PingAn Bank Co., Ltd (PAB) 17.93% 20.68% 20.52%
Bank of Beijing Co., Ltd (BOB) - 20.71% 21.16%
Bank of Nanjing Co., Ltd (BON) - 34.87% 45.83%
Bank of Ningbo Co., Ltd (NBCB) - 30.69% 38.48%
Bình quân các NHTM >20% 20.6% 22.7%
(Nguồn: KPMG –China’s banking sector: Performance of listed banks and hot topics) Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của hệ thống NHTM Trung Quốc có những điểm nổi bật sau:
- Cơ cấu tổ chức hợp lý (phân định rõ ràng giữa các bộ phận front-middle- back office) và mối quan hệ phối hợp hiệu quả giữa các bộ phận này.
- Chặt chẽ trong khâu sử dụng vào đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng.
- Phương thức quản lý hiện đại (sử dụng các công cụ hạn mức, quản trị rủi ro v.v.) dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến và các giải pháp linh hoạt. Các NHTM
thường sử dụng các giải pháp tích hợp, cho phép quản lý toàn diện hoạt động giao dịch đầu tư kinh doanh thông suốt từ Bộ phận kinh doanh trực tiếp (Front Office), qua bộ phận Quản trị rủi ro (Middle Office) cho đến bộ phận hỗ trợ (Back Office) theo luồng công việc tự động được xây dựng phù hợp với nhu cầu của ngân hàng.
- Bộ phận đầu tư kinh doanh phát triển các chương trình thuật toán nội bộ để xây dựng phương án mua bán trái phiếu theo các chiến thuật khác nhau. Các phần mềm máy tính được xây dựng trên nhiều mô hình tài chính định lượng khác nhau, kết hợp giữa thuật toán tin học trong lập trình và các nghiên cứu tài chính thực nghiệm. Các thuật toán này sử dụng nhiều mô hình toán phức tạp để xử lý các biến số đầu vào nhằm ra quyết định đầu tư kinh doanh. Các thuật toán này cũng được phát triển cho từng thị trường và được điều chỉnh cho từng thời kỳ. Với sự phát triển mạnh mẽ của CNTT, cùng với các hệ thống hiện đại như Bloomberg, Reuters cung cấp dịch vụ hỗ trợ tích hợp (các thông tin cơ bản, dữ liệu kinh tế, cách tính giá), các mô hình kinh doanh bằng thuật toán ngày càng phát triển rộng rãi.
- Đối với các giao dịch thứ cấp, hệ thống NHTM thường sử dụng 2 hệ thống giao dịch điện tử chính trong giao dịch mua bán trái phiếu với các đối tác trên thị trường là hệ thống khớp lệnh trực tiếp và hệ thống khớp lệnh chéo. Hệ thống khớp lệnh trực tiếp được chia thành hệ thống khớp lệnh trực tiếp đơn đối tác (single – dealer) (là hệ thống chỉ cho phép cán bộ giao dịch trái phiếu chỉ thực hiện kết nối trực tiếp với 1 đối tác để giao dịch) và hệ thống khớp lệnh trực tiếp đa đối tác (multi – dealer) (là hệ thống cho phép cán bộ giao dịch trái phiếu có thể kết nối với nhiều đối tác cùng lúc, từ đó có thể so sánh cùng lúc nhiều báo giá và lựa chọn giá tốt nhất để giao dịch cho ngân hàng). Hệ thống khớp lệnh chéo (complex) là hệ thống kết nối khớp lệnh định kỳ hoặc khớp lệnh liên tục giữa các ngân hàng với nhau hoặc với các đối tác khác để cùng thực hiện giao dịch. Hay nói cách khác, hệ thống này cho phép các NHTM có thể đặt cùng một lúc nhiều lệnh mua bán với nhiều đối tác khác nhau và lệnh sẽ được khớp trên cơ sở phù hợp về giá giữa các bên tham gia.
- Chiến lược đầu tư kinh doanh trái phiếu chủ động là chiến lược mà các NHTM Trung Quốc thường xuyên thực hiện, trên cơ sở tiến hành việc đầu tư kinh doanh với mục tiêu đạt kết quả tốt hơn các chỉ số chuẩn mực trên thị trường, thường bằng cách mua và bán các trái phiếu để tận dụng các biến động về giá, hoặc có thể
kiếm được khoản lời bằng cách bán khống, vay trái phiếu để bán khi giá cao sau đó chờ giá giảm, mua trái phiếu để trả lại. Tùy vào từng thời điểm, ngân hàng có thể thực hiện chiến lược đầu tư kinh doanh chủ động theo các phương thức khác nhau như: chiến lược đầu tư kinh doanh trạng thái “trường”; chiến lược đầu tư kinh doanh trạng thái “đoản”; chiến lược đầu tư kinh doanh chênh lệch đường cong lãi suất (Yield Curve Arbitrage); chiến lược đầu tư kinh doanh chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền (Interest Arbitrage).
- Ban hành đầy đủ cơ chế, chính sách, luật pháp có liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu nói chung và hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM nói riêng.
- Thường xuyên đa dạng hóa danh mục trái phiếu nắm giữ với nhiều loại trái phiếu Tín phiếu Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC Bill), Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu Tài chính (Financial Bond) và các sản phẩm phái sinh. Các giao dịch trái phiếu của NHTM Trung Quốc được thực hiện trên thị trường liên ngân hàng, sàn giao dịch chứng khoán và cả thị trường phi chính thức (OTC market).
- Bên cạnh đó, nhiều NHTM tại Trung Quốc như Ngân hàng công thương, Ngân hàng Xây dựng, Ngân hàng Nông nghiệp v.v. luôn đặt ra những giải pháp toàn diện trong quản trị rủi ro, nâng cao hiệu quả xử lý và hỗ trợ giao dịch và tăng trưởng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh nói chung và trong lĩnh vực kinh doanh trái phiếu nói riêng. Những NHTM này luôn biết nắm bắt cơ hội theo xu thế phát triển của ngành Ngân hàng, tiếp tục tiến hành đổi mới sản phẩm và thúc đẩy các nghiệp vụ phát triển nhanh chóng để nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngân hàng [45], [50].
1.2.1.2. Kinh nghiệm của Ngân hàng thương mại Mỹ
Thị trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng của Mỹ hiện nay là một thị trường quan trọng bậc nhất trên thế giới nếu xét trên tổng thể khối lượng và quy mô hoạt động và sự ảnh hưởng to lớn của nó đối với các thị trường chứng khoán khác.
Về tính pháp lý
Tại Mỹ, hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của hệ thống NHTM bị hạn
chế sau khi Quốc hội thông qua Đạo luật Glass-Steagall năm 1933. Việc hạn chế này nhằm tách bạch hoạt động ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại.Tuy nhiên, trước áp lực lớn từ các Ngân hàng trong nước hàng đầu, và do thành công của các đối thủ cạnh tranh đến từ nước ngoài, vào những năm của thập kỷ 80 Cục dự trữ liên bang đã bắt đầu nới lỏng các quy định đối với việc NHTM đầu tư kinh doanh trái phiếu do khách hàng của ngân hàng phát hành. Và chỉ đến năm 1999, dưới sức ép của các ngân hàng thương mại nhằm mở rộng phạm vi họat động, đạo luật Glass-Steagall mới bị thay thế bởi đạo luật Glamm-Leach-Bliley, nhằm cho phép sự tái hợp giữa ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại, hình thành nên các tập đoàn ngân hàng đa năng toàn phần.
Luật liên bang quy định sự cần thiết đối với việc mỗi NHTM và các nhà đầu tư khác phải có chính sách đầu tư kinh doanh cụ thể, trong đó nêu rõ các mặt sau:
• Chất lượng trái phiếu hoặc mức độ rủi ro vỡ nợ mà từng NHTM sẵn sàng
chấp nhận.
• Phạm vi về kỳ hạn và khả năng trao đổi trên thị trường đối với tất cả trái phiếu được mua, bán.
• Mục đích của ngân hàng đối với danh mục đầu tư kinh doanh.
• Mức độ đa dạng hóa nhằm hạn chế rủi ro mà ngân hàng mong muốn đạt
được từ danh mục đầu tư kinh doanh của mình.
Trên cơ sở đó, các cơ quan quản lý sẽ đối chiếu danh mục và chính sách đầu tư kinh doanh của ngân hàng, đánh giá xem mục đích đầu tư của ngân hàng có phù hợp với chính sách đề ra hay không và ngân hàng có tham gia vào những hoạt động mang tính đầu cơ, lũng đoạn thị trường hay không.
Ngoài ra, các cơ quan quản lý luôn thường xuyên hoàn thiện về cơ chế, chính sách, luật pháp có liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu nhằm hạn chế rủi ro và quản lý có hiệu quả hoạt động này của các NHTM.
Về cơ cấu danh mục đầu tư và quy mô hoạt động
Các NHTM Mỹ chủ yếu nắm giữ các loại TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương với tỷ trọng lớn; đồng thời cũng có sự khác biệt giữa các NHTM có quy mô tài sản khác nhau. Đối với các loại trái
phiếu khác, các NHTM Mỹ nắm giữ nhiều loại hình khác nhau như: TPDN nội địa có tài sản đảm bảo hoặc không; trái phiếu doanh nghiệp nước ngoài phát hành; trái phiếu cơ cấu v.v.
Bảng 1.4: Số liệu bình quân về tỷ trọng nắm giữ trái phiếu (bao gồm các loại TPCP, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương) của từng nhóm NHTM Mỹ theo quy mô tài sản giai đoạn 2009-2014
Năm
Đối với các NHTM nói chung
Nhóm NHTM có quy mô tài sản <100 triệu USD
Nhóm NHTM (Từ 100 triệu - đến 1 tỷ USD)
Nhóm NHTM quy mô TS> 1 tỷ USD
Số lượng NHTM
được khảo sát
Tỷ trọng
bình quân
Số lượng NHTM
được khảo sát
Tỷ trọng bình quân
Số lượng NHTM
được khảo sát
Tỷ trọng
bình quân
Số lượng NHTM
được khảo sát
Tỷ trọng
bình quân
30/09/2014 5.705 75.01% 1710 96.80% 3440 95.83% 555 72.93%
2013 5,876 72.02% 1814 96.45% 3522 94.99% 540 69.49%
2012 6,096 71.84% 1954 96.28% 3607 94.82% 535 69.33%
2011 6,291 70.62% 2143 96.59% 3633 95.23% 515 67.73%
2010 6,530 70.50% 2328 96.31% 3693 94.65% 509 67.68%
2009 6,840 66.62% 2528 96.10% 3798 93.44% 514 63.32%
Nguồn: Federal Deposit Insurance Corporation;tác giả tổng hợp
Xét về tổng thể, đối với tất cả các NHTM Mỹ, quy mô đầu tư kinh doanh trái phiếu chiếm bình quân khoảng 20% giá trị tổng tài sản hoặc tổng tài sản sinh lời.
Bảng 1.5: Quy mô hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của các NHTM Mỹ giai đoạn 2009-30/09/2014
Năm Số lượng NHTM được
khảo sát
Số BQ về Tỷ trọng đầu tư kinh doanh trái phiếu so
với tổng tài sản của các NHTM
Số BQ về Tỷ trọng đầu tư kinh doanh trái phiếu so với tổng tài sản sinh lời của
các NHTM
30/09/2014 5,705 20.17% 22.68%
2013 5,876 19.91% 22.17%
2012 6,096 20.54% 23.03%
2011 6,291 20.09% 22.67%
2010 6,530 19.49% 22.09%
2009 6,840 18.60% 21.24%
Nguồn: Federal Deposit Insurance Corporation; tác giả tổng hợp Về phương thức hoạt động
Các NHTM tại Mỹ thường chia hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu thành
2 phần riêng biệt: bộ phận phục vụ thanh khoản và bộ phận tạo thu nhập.
• Bộ phận thanh khoản (dự trữ thứ cấp): chủ yếu bao gồm trái phiếu chính
phủ ngắn hạn (trái phiếu do chính quyền liên bang, chính quyền bang và địa phương phát hành); trái phiếu trên thị trường tiền tệ như giấy nợ ngắn hạn. Phần dự trữ thứ cấp này nằm giữa tài sản tiền mặt và những khoản cho vay. Mặc dù có đem lại thu nhập nhưng phần dự trữ này được nắm giữ chủ yếu là để cho các ngân hàng có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt phục vụ thanh khoản trong thời gian ngắn.
• Bộ phận tạo thu nhập: bao gồm các loại trái phiếu được ngân hàng nắm giữ
vì tỷ lệ thu nhập mà chúng đem lại. Thông thường những trái phiếu này được chia làm 2 nhóm: nhóm chịu thuế (chủ yếu là trái phiếu chính phủ Mỹ, trái phiếu của các tổ chức liên bang khác, trái phiếu công ty v.v.) và nhóm miễn thuế (chủ yếu là các trái phiếu của chính quyền bang và địa phương).
Ngoài ra, cấu trúc danh mục đầu tư kinh doanh của các ngân hàng ở Mỹ với quy mô lớn và nhỏ là không giống nhau. Qua thống kê, các NHTM nhỏ ít có khả năng đối phó với rủi ro và chính vì vậy ngân hàng nhỏ có xu hướng dùng các trái phiếu an toàn để cân bằng mức độ rủi ro cao trong danh mục cho vay. Ngược lại, ngân hàng thương mại quy mô lớn có xu hướng đầu tư nhiều hơn vào các trái phiếu nước ngoài, trái phiếu doanh nghiệp v.v.
Bên cạnh đó, các nhà quản trị ngân hàng thường áp dụng một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá tổng thể thực trạng hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng từng thời điểm hay trong một giai đoạn (tháng/quý/năm) để có thể nhận biết sớm được thực trạng của chất lượng hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng, và đưa ra các biện pháp hữu hiệu để phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động. Đồng thời các nhà quản trị cũng áp dụng một hệ thống nội bộ tính điểm doanh thu cho bộ phận kinh doanh. Khi một giao dịch mua bán với đối tác thành công, bộ phận kinh doanh nhận được một số điểm doanh thu nhất định và đây là cơ sở để phân chia lợi nhuận nội bộ cũng như xác định lương thưởng cuối năm giữa các cán bộ.
Về cơ cấu tổ chức - nhân sự
Trong một ngân hàng thương mại của Mỹ, hoạt động đầu tư kinh doanh trái