CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ KINH DOANH TRÁI
3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ
3.4.1.1. Sửa đổi các quy định về các mức giới hạn đối với cơ cấu sở hữu trong hệ thống ngân hàng thương mại
Chính phủ cần xem xét sửa đổi các quy định về các mức giới hạn đối với cơ cấu sở hữu trong hệ thống NHTM Việt Nam theo hướng giảm dần tỷ lệ sở hữu nhà nước và tăng dần tỷ lệ sở hữu nước ngoài. Cụ thể:
- Nếu duy trì tỷ lệ sở hữu Nhà nước ở mức cao đối với các NHTM thì rủi ro đối với các ngân hàng này tăng lên rất mạnh vì kỷ cương giám sát của Chính phủ có tính chất buông lỏng hơn so với kỷ cương giám sát của cơ chế thị trường. Theo số liệu thống kê, các nước càng phát triển thì tỷ lệ sở hữu của Nhà nước trong hệ
thống ngân hàng càng giảm, khoảng 25% ở các nước phát triển và khoảng 45% ở các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, việc giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước đối với hệ thống NHTM cũng là một trong những chính sách nằm trong lộ trình tổng thể hội nhập quốc tế của Việt Nam, căn cứ trên các thỏa thuận, cam kết mở cửa tại các hiệp định thương mại song phương và đa phương đối với từng ngành, lĩnh vực kinh tế cụ thể và đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu, đổi mới quản trị và nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng.
- Cho phép nhà đầu tư nước ngoài được nắm giữ tối đa 49% vốn điều lệ của một ngân hàng, trong đó nhà đầu tư chiến lược nắm giữ không quá 30% vốn điều lệ nhằm tăng khả năng thu hút đầu tư, đặc biệt từ các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Nếu cứ duy trì giới hạn thấp sẽ không đủ kích thích các ngân hàng nước ngoài thực sự đóng vai trò nhà đầu tư chiến lược mà chỉ đóng vai trò nhà đầu tư kinh doanh kiếm lời từ việc mua cổ phiếu của các NHTM Việt Nam.
- Hiện nay quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài không phải là quỹ đầu tư muốn mua cổ phần và trở thành nhà đầu tư chiến lược nước ngoài phải có tổng tài sản tối thiểu tương đương 20 tỷ Đôla Mỹ; có kinh nghiệm hoạt động quốc tế; được các Tổ chức xếp loại tín nhiệm quốc tế xếp hạng ở mức có khả năng thực hiện các cam kết tài chính và hoạt động bình thường ngay cả khi tình hình, điều kiện kinh tế biến đổi theo chiều hướng không thuận lợi. Nếu qui định như trên thì chỉ có một số NHTM lớn nước ngoài sẽ lựa chọn mua cổ phần của một số ngân hàng cổ phần Việt Nam hoạt động hiệu quả. Như vậy, Chính phủ cần nới lỏng quy định này để toàn bộ các đối tượng nước ngoài khác như quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư và các loại pháp nhân nước ngoài khác sẽ được mua cổ phần.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngân hàng và hoạt động của ngân hàng, tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng, đối xử bình đẳng giữa các loại hình ngân hàng nhằm tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
- Chính phủ cần đối xử và chấp nhận các ngân hàng như những tổ chức hoàn toàn độc lập nhưng điều tiết, giám sát họ theo những cách thức để tạo ra những động cơ khuyến khích đúng đắn và phù hợp.
3.4.1.2. Phát triển thị trường trái phiếu
- Về mặt chính sách vĩ mô: Chính phủ trước hết phải phối hợp hài hoà chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ nhằm tạo nên một môi trường tài chính lành mạnh, mặt bằng lãi suất hợp lý để các công cụ nợ có thể phát triển.
- Trong thời gian vừa qua, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý thị trường trái phiếu còn có bất cập, chồng chéo nhất định gây khó khăn cho các NHTM trong hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu. Các thủ tục được cấp phép hoạt động còn rườm rà, mất thời gian và phải qua sự xét duyệt của nhiều cơ quan.
Khi có vấn đề phát sinh trên thị trường trái phiếu, các cơ quan thường đùn đẩy trách nhiệm, xem xét thảo luận rất lâu. Do vậy, Chính phủ cần sớm thiết lập và thống nhất một cơ chế phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý thị trường trái phiếu, đặc biệt là giữa NHNN và Bộ Tài Chính là một biện pháp thúc đẩy thị trường trái phiếu phát triển.
Để thị trường trái phiếu phát triển bền vững, từng bước tiếp cận với thông lệ, chuẩn mực quốc tế, thị trường trái phiếu Việt Nam cần được thực hiện đồng bộ các giải pháp về khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách, đa dạng hóa sản phẩm, phát triển nhà đầu tư, phát triển các định chế trung gian và hạ tầng thị trường. Cụ thể:
• Hoàn thiện cơ chế phát hành trái phiếu và đa dạng hóa sản phẩm
- Các tổ chức phát hành cần xây dựng lịch biểu phát hành, kế hoạch phát hành và thông tin rộng rãi tới các thành viên thị trường, nhà đầu tư; Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cần tiếp tục duy trì việc phát hành TPCP với hình thức lô lớn, tăng quy mô một mã trái phiếu lên 5.000 - 6.500 tỷ đồng nhằm tạo ra các mã chuẩn.
- Tiếp tục thực hiện chương trình hoán đổi TPCP nhằm tăng quy mô mã trái phiếu và thúc đẩy thanh khoản cho thị trường. Từ gần 200 mã vào cuối năm 2011 đến nay tổng số mã trái phiếu kho bạc chỉ còn 89 mã, quy mô bình quân mã đạt khoảng 3.300 tỷ đồng.
- Bên cạnh những nỗ lực hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường thứ cấp phù hợp, liên thông hơn nữa với thị trường thứ cấp, cần thúc đẩy nghiên cứu và áp dụng công cụ chỉ báo thị trường, chỉ số trái phiếu (Bond Index), when-Issued và các sản phẩm giao dịch phái sinh, góp phần da dạng hóa công cụ giao dịch, tạo thêm
nhiều lựa chọn cho các nhà đầu tư và giảm thiểu rủi ro thị trường.
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách về giao dịch kỳ hạn, đồng thời nghiên cứu cơ chế về phát hành TPCP theo lãi suất thả nổi.
• Phát triển nhà đầu tư và các định chế trung gian
- Nghiên cứu trình Chính phủ cơ chế thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty định mức tín nhiệm tại thị trường trong nước nhằm cung cấp các đánh giá chính xác và minh bạch cho nhà đầu tư trong các đợt phát hành
- Nghiên cứu cơ chế hình thành và phát triển Quỹ hưu trí bổ sung tự nguyện; quản lý ngân quỹ, gắn quản lý ngân quỹ với quản lý nợ và phát triển thị trường TPCP nhằm củng cố hệ thống cơ sở nhà đầu tư dài hạn trên thị trường trái phiếu. Bên cạnh đó, cần thay đổi cơ sở nhà đầu tư bằng việc tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính phát triển bởi vì đây là các tổ chức đẩy mạnh nhu cầu trái phiếu trên thị trường. Bên cạnh các ngân hàng thương mại, cần tạo điều kiện để phát triển các tổ chức tài chính như: công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư tương hỗ.
- Xây dựng hệ thống các nhà tạo lập thị trường để hình thành các mức giá giao dịch chuẩn trên cơ sở hệ thống thành viên đấu thầu trái phiếu Chính phủ với các giải pháp như (i) ban hành khuôn khổ pháp lý về quyền lợi và nghĩa vụ của nhà tạo lập thị trường, theo đó nâng cao trách nhiệm của các thành viên đấu thầu trên thị trường sơ cấp; (ii) Thúc đẩy nhanh quá trình đăng ký, lưu ký, niêm yết giao dịch, nghiệp vụ repo, cung cấp thông tin giá cả nhằm hỗ trợ sự tham gia của các nhà tạo lập thị trường trên thị trường thứ cấp; (iii) tiếp tục nghiên cứu ban hành cơ chế chính sách về cơ chế hỗ trợ thanh khoản trên thị trường để tiến tới quy định thêm nghĩa vụ đối với các nhà tạo lập thị trường trên thị trường thứ cấp là chào giá cam kết 2 chiều; (iv) Tăng cường các cuộc đối thoại định kỳ với thành viên để nắm bắt nhu cầu và vướng mắc trong triển khai hệ thống thành viên đấu thầu.
- Xây dựng và từng bước thực hiện cơ chế thu hút nhà đầu tư tham gia thị trường thông qua rà soát, điều chỉnh hợp lý chính sách thuế và phí giao dịch trái phiếu, áp dụng các công cụ tài chính phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho nhà đầu tư nước ngoài; khuyến khích các tổ chức nước ngoài phát hành các chứng chỉ lưu ký toàn cầu được niêm yết trên thị trường nước ngoài với tài sản cơ sở là trái phiếu chính phủ trong nước…
- Tiếp tục xây dựng lộ trình thu hút nhà đầu tư nước ngoài với các giải pháp căn bản như: Ổn định nền kinh tế vĩ mô; Xây dựng và phát triển các sản phẩm trái phiếu phái sinh như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai... để phòng ngừa rủi ro trên thị trường trái phiếu; Tăng cường tính công khai minh bạch trên thị trường thông qua xây dựng trang thông tin điện tử chuyên biệt cho thị trường trái phiếu gồm đầy đủ dữ liệu thông tin về thị trường.
• Hoàn thiện cơ chế chính sách
- Ban hành khuôn khổ pháp lý cho hệ thống đại lý cấp I nhằm hoàn thiện và phát triển hệ thống đại lý cấp I để hỗ trợ công tác phát hành trái phiếu trên thị trường sơ cấp và thanh khoản của thị trường thứ cấp. Đồng thời cần sửa đổi các quy định pháp lý liên quan (hiện tại là thông tư số 17/2012/TT-BTC) đến việc hướng dẫn phát hành trái phiếu Chính phủ tại thị trường trong nước theo hướng tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích sự tham gia thị trường trái phiếu của thành viên đấu thầu; rút ngắn thời gian từ ngày tổ chức phát hành đến giao dịch; nâng cao tính thanh khoản của thị trường trái phiếu; bổ sung quyền lợi và giảm thiểu nghĩa vụ của thành viên. Bên cạnh đó, sửa đổi quy định liên quan đến việc hướng dẫn hoán đổi trái phiếu Chính phủ (hiện tại là thông tư 150/2011/TT-BTC) theo hướng đơn giản hóa quy trình hoán đổi, giảm thời gian từ ngày công bố thông tin đến ngày hoán đổi.
- Để phát triển thị trường repo, cần xây dựng một khung pháp lý toàn diện cho các giao dịch repo, xây dựng và phát triển hợp đồng khung GMRA và xem xét lại mức phí liên quan tới giao dịch nay, vấn đề về thuế cũng cần được xem xét.
- Cơ chế thanh toán cần hiệu quả hơn, tránh các rủi ro cho nhà đầu tư. Cụ thể hơn, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Kho bạc Nhà nước và hệ thống các ngân hàng thương mại trong quy trình thanh toán cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, tích cực phối hợp giữa các cơ quan ban ngành liên quan để xây dựng "Đề án chuyển chức năng thanh toán tiền giao dịch TPCP từ Ngân hàng Thương mại sang NHNN”.
- Cần thực hiện kiểm soát chặt chẽ việc lập, thẩm định, phê duyệt các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn từ TPCP; cần có sự thanh tra và giám sát chặt chẽ quy trình đầu tư công để hạn chế tình trạng các nguồn vốn huy động được từ thị trường TPCP bị sử dụng sai mục đích; cần công khai minh bạch tiến độ thực hiện các dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước và xử lý nghiêm khắc các sai phạm để tránh thất
thoát, lãng phí nguồn vốn huy động.
- Chính phủ cần phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để ổn định nền kinh tế vĩ mô, nhằm huy động được nguồn vốn qua phát hành TPCP cho phát triển kinh tế-xã hội đã được Quốc hội phê duyệt; tiếp tục theo đuổi mục tiêu kiểm soát lạm phát không vượt quá mục tiêu được Quốc hội phê chuẩn.
• Tập trung phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Trên cơ sở phân tích mô hình đo lường tác động của các yếu tố đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM tại mục 2.2.3 đã chỉ ra rằng quy mô trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường trái phiếu có quan hệ cùng chiều với tỷ suất sinh lời của hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM. Trên cơ sở đó, chính phủ cần tăng cường các biện pháp nhằm mở rộng và tăng quy mô trái phiếu doanh nghiệp, giảm tỷ trọng trái phiếu chính phủ trên thị trường trái phiếu Việt Nam. Các biện pháp tập trung ở các nội dung sau:
- Chú trọng việc xây dựng cơ sở dữ liệu trung tâm thông tin về Trái phiếu doanh nghiệp (cơ sở dữ liệu bao gồm cả thông tin về thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp) và xây dựng thị trường giao dịch cho Trái phiếu doanh nghiệp.
- Chính phủ cần có các biện pháp hạn chế sự thống trị của các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp lớn trên thị trường, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp phát hành trái phiếu chuyển đổi có mức lãi suất phù hợp nhằm thu hút sự chú ý của công chúng đối với trái phiếu doanh nghiệp và làm tăng tính thanh khoản của thị trường trái phiếu doanh nghiệp [61].
- Một số nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra rằng Chính phủ cần tăng cường các biện pháp nhằm ổn định tỷ giá hối đoái nhằm giúp hạn chế rủi ro đối với các nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, tỷ giá hối đoái ổn định, ít có sự biến động sẽ khuyến khích thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển. Trên cơ sở đó, cần xây dựng, phát triển các công cụ tài chính phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài [46].
- Cần minh bạch hóa hơn thông tin về doanh nghiệp như thông tin về các đợt phát hành, cách thức sử dụng vốn huy động. Điều này đòi hỏi sự tăng cường vai trò
của những tổ chức định mức tín nhiệm hay các công ty giám sát độc lập. Cùng với đó, các doanh nghiệp cần đa dạng hóa hơn nữa các loại trái phiếu để tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.