2.2. Thực trạng phát triển hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Đầu Tư và Phát Trển Hà Thành
2.2.4. Đánh giá hoạt động cho vay DNV&N của Chi nhánh NHĐT&PTVN Hà Thành
Qua bảng số liệu và biểu đồ trên ta thấy:
Dư nợ cho vay DNV&N theo thành phần kinh tế tăng liên tục là năm 2005 đạt được 1,133,814 triệu đồng, năm 2006 đạt được 1,228.704 triệu đồng và năm 2007 đạt được 1,998,308 triệu đồng sự tăng nay lý do là cho vay DNV&N ngoài quốc doanh cũng tăng lên tục : năm 2005 đạt được 1,045,319 triệu đồng, tương đương tỷ trọng 92% so với dư nợ cho vay DNV&N, năm 2006 đạt được 1,147,603 triệu đồng , tương đương tỷ trọng 93% so với dư nợ cho vay DNV&N và năm 2007 đã đạt được 1,871,887 triệu đồng , tương đương tỷ trọng 94% so với dư nợ cho vay DNV&N.
2.2.4. Đánh giá hoạt động cho vay DNV&N của Chi nhánh NHĐT&PTVN Hà Thành
2.2.4.1. Những mặt đạt được
Qua những số liệu thực tế và những phân tích cơ bản về tình hình hoạt động cho vay của chi nhánh NHĐT&PTVN hà Thành thành công đối với DNV&N trong 3 năm gần đây (2005-2007) , ta có thể chi nhánh đã đạt được những kết quả như sau:
Đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, nhu cầu hội nhập của nền kinh tế, sự cạnh tranh gay gắt trong việc hình thanhd nên hàng loạt các ngân hàng, chi nhánh NHĐT&PTVN hà Thành thành công thành đã đổi mới hoạt động trong nhiều mặt. Hoạt động vay là hoạt động mang lại thu nhập chính cho ngân hàng, chính vì vậy chi nhánh luôn quan tâm và có những chiến lược mở rộng thị phần cho vay dưới sự định hướngcủa nhà nước, sự chỉ đạo của NHĐT&PTVN Hà Thành bằng việc duy trì các khách hàng vốn có quan hệ lâu dài với ngân hàng, các tổng công ty, các DNV&N lớn thì chi nhánh cũng vươn tầm hoạt động tới các DNV&N.
Qua số liệu ở trên cho thấy quy mô cho vay qua cá năm của ci nhánh đối với các DNV&N ngày cang tăng. Chi nhánh cũng đã có sự thay đổi những sự thay đổi trong cơ chế cho vay với DNV&N: mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay ngoài quốc doanh, đặc biệt là cho vay DNV&N ngoài quốc doanh. Qua sự phân tích, theo dõi chặt chẽ của CBTD ngân hàng, sự quản lý của các cấp lãnh đạo, chi nhánh luôn tìm ra được những đối tượng DNV&N thoả mãn yâu cầu vay vốn dù đó là nhu cầu vay trung và dài hạn hoặc là DNV&N ngoài quốc doanh, không có sự phân biệt như trước nữa. Việc làm này đã góp phần vào sự phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế nói chung và của DNV&N nói riêng.
2.2.4.2. Những hạn chế còn tồn tại:
Ngoài những kết quả đạt được trên, hoạt động cho vay NDV&N của chi nhánh còn tồn tại những hạn chế như sau:
Mặc dù quy mô cho vay các DNV&N đang ngày càng được mở rộng và tăng lên qua các năm nhưng tỷ trọng dư nợ cho vay DNV&N vẫn chua lớn trong tỷ trọng dư nợ cho vay của chi nhánh.
Tại chi nhánh NHĐT&PTVN Hà Thành thành công , hình thức cho vay đối với DNV&N tại chi nhánh chưa phong phú, hiện chỉ áp dụng chủ yếu hai
phương thức cho vay đó là phương thức cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức. Mặc dù đây là phương thức cho vay gây ít rủi ro ít cho ngân hàng nhưng lại gây phiền toái cho khách hàng về vấn đề thủ tục.
Ngoài ra, nguồn vốn dành cho vay đối với các DNV&N chưa có quỹ riêng đặc biệt nguồn vốn trung và dài hạn của chi nhánh NHĐT&PTVN Hà Thành còn hạn chế trong khi nhu cầu đầu tư để phát triển của các doanh nghiệp nói chung và DNV&N nói riêng là rất lớn. Điều này gây ra sự mất cân bằng trong cung ứng vốn cho các DNV&N.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỔI VỚI DNV&N TẠI NHĐT&PT CHI NHÁNH HÀ THÀNH
3.1 ĐỊNH HƯỚNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNV&N TẠI NHĐT&PT 3.1.1 Định hướng phát triển DNV&N tại Việt Nam
Doanh nghiệp vưa và nhỏ (DNV&N) đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển nền kính tế như: tạo công an việc làm, phát triển(PT) các ngành công nghiệp bổ trợ đối với ngành công nghiệp mũi nhọn như chế tạo máy, điện tử và một số ngành khác, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nhờ việc tăng xuất khẩu bằng các hàng hoá sản xuất trong nước. Mặt khác việc xoá đói giảm nghèo, hiện đại hoá – công nghiệp hoá nông nghiệp - nông thôn, giảm sự chênh lệnh giữa nông thôn và thành thị cũng có sự đóng góp của DNV&N.
Chính vì vậy, để DNV&N Việt Nam có thể phát huỷ tính hiệu quả Nhà nước đã xác định định hướng chiến lược trong việc PT và khuyên khích khu vực DN này trong từng thời kỳ nhất định.
3.1.1.1 PT DNV&N là một bộ phận quan trọng trong chiến lượng PT KT XH:
Nền kính tế(KT) Việt Nam là nền KT được chuyển đổi từ nền KT kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, nên các DN, các nhà đầu tư chưa nắm vững tính chất cũng như chưa có kinh nghiệm về KT thị trường, nhất là khi tham gia trên thương trường quốc tế. Cùng với PT KT nhiều thành phần và chính sách mở cửa nền KT, việc DNV&N sẽ khuyến khích và là cơ hội để những người có tiền bỏ vốn vào đầu tư sản xuất, kinh doanh. Với độ ngũ các nhà DN Việt Nam ra đời, làm cho nền KT trở nên đa dạng, phong phú và năng động hơn, đồng thời tăng cương tính cạnh tranh của nên KT.
Điều đó đòi hỏi các DN phải vươn lên bằng chính thực lực của mình để có thể
đứng vững trên thương trường trong nước cũng như quốc tế, nhờ đó nền KT se trở hoạt động có hiệu quả hơn.
DNV&N thường có trình độ công nghệ, thiết bị thấp hơn nhiều so với các DN quy mô lớn, vì vậy khu vực này là nơi thu hút nhiều lao động phổ thông. Điều này là hết sức quan trọng đổi với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam hiện tại nói riêng. Phát triển DNV&N sẽ góp phần làm giảm sức ép về tình trạng thất nghiệp, nhất là đổi với bộ phận lao động trong khu vực nông thôn, qua đó tăng thu nhập cho người lao động.
3.1.1.2 PT theo hướng đa dạng hoá ngành nghề và loại hình DN:
Do tính chất quy mô nhỏ, năng động của DNV&N, Nhà nước có chính sách khuyến khích và hỗ trợ để các DN này có thể vượt lên đảm nhận đối với các lĩnh vực có lợi nhuận thấp, sản xuất các mặt hàng thông thường…
Khuyến khích PT các DN tư nhân, công ty cổ phầ, công ty trách nhiệm hữ hạn. Thực tế ở Việt Nam hiện này, các loại hình DN này hầu như hết thuộc khu vực DNV&N.
3.1.1.3 PT trên cơ sở đa dạng hoá về trình độ công nghệ, đổi mới và áp dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến:
Giữa quy mô và trình độ công nghệ của DN có quan hệ mật thiết với nhau. Song mức độ chi phối, ràng buộc này lại phụ thuộc vào trình độ PT của khoa học công nghệ. Trong thời kỳ cách mạng khoa học lần thứ nhất, kỹ thuật hiện đại thường chỉ áp dụng trong DN co quy mô lớn, thì cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày nay với những thành tựu về kỹ thuật tin học, công nghệ chế tạo cơ khí, công nghệ vật liệu mới… kỹ thuật công nghệ hiện đại có thể áp dụng ngay cả trong DNV&N, nhất là các ngành điện tử, chế biến lương thực thực phẩm, các ngành công nghiệp nhẹ…
Vì vậy DNV&N có thể áp dụng công nghệ với nhiều trình độ khác nhau, phù hợp với khả năng của DN, có chính sách khuyến kích các DN có đủ
khả năng, điều kiện tranh thủ các công nghệ, kỹ thuật tiên tiến. Theo hướng đó, mỗi DN phải luôn hướng tới việc đổi mới công nghệ với trình độ thích hợp, việc huy động và sử dụng vốn theo hướng đầu tư chiều sau là chủ yếu, PT quan hệ liên kết giữa các DN với các tổ chức khoa học và nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật…
3.1.1.4 PT quan hệ liên kết KT giữa DNV&N với DN có quy mô lớn:
Để tồn tại và PT, DNV&N không thể khép kín đơn động trong qua trình sản xuất kinh doanh cũng như công nghệ, kỹ thuật mà rất cần có sự liên kết với các DN có quy mô lớn, nếu không thì khó có thể tồn tại được trong các cuộc cạnh tranh khốc liết trên thị trường. Mặt khác, nếu liên kết với DNV&N để sản xuất ra các sản phẩm hoàn chỉnh sẽ giúp cho các DN có quy mô lớn chỉ phải tập trung vào các phần việc có tính trọng tâm, các công việc đòi hỏi trình độ cao, thì sẽ nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Kính nghiệm một số nước cho thấy, việc sản xuất theo cấu trúc 2 tầng:
các DN lớn chi tập trung sản xuất các bộ phận phức tạp và thực hiện việc lắp ráp, hoàn chỉnh sản phẩm, còn các DNV&N làm các chi tiết bộ phận đơn giản hơn để cung cấp hoặc gia công cho các DN lớn đã tạo ra sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao trong nhiều ngành sản xuất cũng như nhiều tập đoàn KT lớn.
Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi để duy trì và PT mối quan hệ liên kết KT giữa các DN nói trung cũng như DNV&N với DN có quy mô lớn phải xuất phát từ yêu cầu khách quan của sự phân công, hợp tác lao động XH và phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện và các bên cùng có lợi. Sự tác động của các chính sách Nhà nước chỉ có tính chất khuyến khích, hỗ trợ.
Chính vì vai trò to lớn của khối DNV&N mà nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện các chương trình, kế hoạch, các chính sách hỗ trợ PT tích cực hơn nữa trong thời gian tới. Có thể khẳng định, định hướng PT mạnh loại
hình DNV&N là một chủ trương đúng đắn và cần thiết đối với nền KT Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.1.2 Định hướng phát triển chung của chi nhánh NH ĐT&PT Hà