1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khóa luận Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam

79 8 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quyền Về Sự Riêng Tư Trong Pháp Luật Quốc Tế Và Pháp Luật Việt Nam
Tác giả Trương Thị Hương Mai
Người hướng dẫn PGS.TS Vũ Công Giao
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Luật Học
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2019
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 79
Dung lượng 697,67 KB

Cấu trúc

  • 1. Tính c ấ p thi ế t c ủa đề tài (8)
  • 2. Tình hình nghiên c ứu liên quan đến đề tài (10)
  • 3. M ục đích, nhiệ m v ụ nghiên c ứ u (12)
  • 4. Đối tượ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u (13)
  • 5. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứ u (13)
  • 6. Ý nghĩa lý luậ n, th ự c ti ễ n c ủa đề tài (13)
  • 7. Cấu trúc của khoá luận (14)
  • CHƯƠNG I (15)
    • 1.1. Khái niệm sự riêng tư (privacy) (15)
    • 1.2. Khái niệm và đặc điểm của quyền về sự riêng tư (16)
      • 1.2.1. Khái ni ệ m c ủ a quy ề n v ề s ự riêng tư (16)
      • 1.2.2. Đặc điể m c ủ a quy ề n v ề s ự riêng tư (21)
    • 1.3. Nội dung và các phương thức bảo vệ quyền về sự riêng tư (24)
      • 1.3.1. N ộ i dung quy ề n v ề s ự riêng tư (24)
      • 1.3.2. Các phương thứ c b ả o v ệ quy ề n v ề s ự riêng tư (25)
    • CHƯƠNG 2 (26)
      • 2.1. Khung pháp lu ậ t qu ố c t ế v ề b ả o v ệ quy ề n v ề s ự riêng tư (26)
        • 2.1.1. Quy ề n v ề s ự riêng tư trong các văn kiệ n c ủ a Liên H ợ p Qu ố c (26)
        • 2.1.2. Quy ề n v ề s ự riêng tư trong các văn bả n pháp lu ậ t nhân quy ề n ở c ấ p độ khu v ự c (29)
        • 2.1.3. Pháp lu ậ t b ả o v ệ quy ề n v ề s ự riêng tư tạ i m ộ t s ố qu ố c gia trên th ế (32)
      • 2.2. Khung pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền về sự riêng tư (37)
        • 2.2.1. Quy đị nh chung v ề quy ề n v ề s ự riêng tư (37)
        • 2.2.2. Quy định chi tiết về nội dung quyền về sự riêng tư (41)
        • 2.2.3. Quy định về biện pháp bảo vệ quyền về sự riêng tư (59)
      • 2.3. Đánh giá sự tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế (61)
    • CHƯƠNG 3 (64)
      • 3.1. Nguyên nhân c ủ a nh ữ ng h ạ n ch ế trong vi ệ c b ả o v ệ quy ề n v ề s ự riêng tư ở Việt Nam (64)
      • 3.2. Các giải pháp tăng cường bảo vệ quyền về sự riêng tư ở Việt Nam (69)
        • 3.2.1. Nhóm gi ả i pháp v ề m ặ t pháp lý (69)
        • 3.2.2. Nhóm gi ả i pháp v ề m ặ t xã h ộ i (70)
        • 3.2.4. Nhóm gi ả i pháp tham gia ký k ết các Điều ướ c qu ố c t ế v ề quy ề n riêng tư (73)
  • KẾT LUẬN (75)

Nội dung

Tính c ấ p thi ế t c ủa đề tài

Quyền con người là một vấn đề lịch sử lâu đời, được quan tâm trên toàn cầu trong suốt quá trình phát triển của nhân loại Đây là một khái niệm chính trị - pháp lý, gắn liền với các cuộc đấu tranh giai cấp và cách mạng, phản ánh quá trình tự giải phóng của con người Sự ra đời và phát triển của quyền con người không chỉ mang tính thực tiễn mà còn có ý nghĩa lý luận sâu sắc, thể hiện mối quan tâm chung của nhân loại đối với quyền lợi và tự do cá nhân.

Quyền riêng tư là một quyền con người cơ bản được công nhận trong nhiều văn kiện pháp lý của Liên Hợp Quốc, bao gồm Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, và Công ước về quyền trẻ em năm 1989 Việt Nam, với tư cách là quốc gia thành viên, có trách nhiệm chuyển hóa các điều ước quốc tế này vào pháp luật trong nước và thực hiện các biện pháp bảo đảm quyền con người.

Bảo vệ quyền riêng tư tại Việt Nam không phải là vấn đề mới, đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật dân sự và Bộ luật hình sự Tuy nhiên, quyền riêng tư vẫn bị xâm phạm nghiêm trọng, tương tự như ở nhiều quốc gia khác Trong thời đại số hiện nay, việc xâm phạm quyền riêng tư diễn ra dễ dàng, và không phải ai cũng có khả năng tự bảo vệ thông tin cá nhân của mình Scandal liên quan đến Facebook năm ngoái đã minh chứng rằng thông tin cá nhân trên mạng xã hội không được bảo mật hoàn toàn.

Vào ngày 10 và 14/4/2018, ông chủ Facebook đã phải điều trần trước Thượng viện và Hạ viện Mỹ sau khi tờ New York Times phanh phui việc Công ty Cambridge Analytica của Anh thu thập thông tin của 50 triệu người dùng Facebook mà họ không hay biết Vụ việc này làm nổi bật thực tế rằng trong thời đại công nghệ hiện nay, quyền riêng tư của cá nhân ngày càng khó được đảm bảo Một ví dụ khác về sự rò rỉ thông tin cá nhân là trường hợp của hơn 14.200 người nhiễm HIV tại Singapore.

Bộ Y tế Singapore, các dữ liệu liên quan đến 5.400 công dân Singapore nhiễm

Từ năm 1985 đến tháng 1/2013, đã có 8.800 người nước ngoài nhiễm HIV bị rò rỉ thông tin, với dữ liệu bị lộ bao gồm tên, số chứng minh thư, số liên lạc, địa chỉ, kết quả xét nghiệm HIV và thông tin y tế.

Trong thời đại công nghệ phát triển mạnh mẽ, khả năng kết nối và chia sẻ thông tin trở nên nhanh chóng và tiện lợi, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều hệ lụy tiêu cực, đặc biệt là xâm phạm quyền riêng tư cá nhân Sự gia tăng công nghệ cao càng làm gia tăng mối đe dọa đến sự riêng tư của con người Quy định về quyền riêng tư tại Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế và bất cập, do đó cần thiết phải nghiên cứu và hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan để bảo vệ quyền riêng tư hiệu quả hơn.

Với những lý do đã nêu, tôi quyết định chọn đề tài “Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam” cho khoá luận tốt nghiệp, nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề này tại Việt Nam.

Tình hình nghiên c ứu liên quan đến đề tài

Bảo vệ quyền riêng tư đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả cả trong và ngoài nước Nhiều nghiên cứu quốc tế đã được thực hiện để tìm hiểu sâu về vấn đề này.

- Dimitri Vitaliev (2007), “Frontline International Foundation for the Protection of Human rights defenders”;

- Graeme Laurie (2002), “Genetic privacy: a challenge to medico-legal norms”, Cambridge, U.K; New York: Cambridge University Press;

- Michael, James (1994), “Privacy and human rights: an international and comparative study, with special reference to developments information technology”, Paris: Aldershot UNESCO Publ; Dartmouth, cop;

- William N Eskridge, Nan D Hunter (1997), “Sexuality, gender, and the law”, New York: Foundation press;

- Richard Hunter (2002), “World without secrets: Business, crime, and Privacy in the age of ubiquitous computing”, New York : John Wiley & Sons;

Bruce Schneier and David Banisar's 1997 work, "The Electronic Privacy Papers: Documents on the Battle for Privacy in the Age of Surveillance," published by John Wiley & Sons, highlights the ongoing struggle for privacy in a surveillance-driven world Although research on this issue is less prevalent in Vietnam, there are notable contributions to the field, as outlined below.

- Lê Đình Nghị (2007), “Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam”, Luận văn tiến sĩ luật học, trường Đại học luật

- Tiến sĩ Thái Thị Tuyết Dung – giảng viên Đại học luật TP Hồ Chí Minh, Sách tham khảo “Quyền tiếp cận thông tin và quyền riêng tư tại

PGS.TS Nguyễn Thị Quế Anh, PGS.TS Vũ Công Giao, TS Ngô Minh Hương, và TS Lã Khánh Tùng đã cùng nhau biên soạn sách tham khảo “Quyền về sự riêng tư”, được xuất bản bởi NXB Chính trị quốc gia sự thật vào năm 2018.

PGS.TS Nguyễn Thị Quế Anh và PGS.TS Vũ Công Giao là tác giả của cuốn sách tham khảo “Phạm vi và giới hạn của tự do Internet”, được xuất bản bởi NXB Chính trị sự thật quốc gia Cuốn sách này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các khía cạnh khác nhau của tự do Internet, đồng thời phân tích những ranh giới và thách thức trong việc bảo vệ quyền tự do trực tuyến.

Vũ Công Giao và Phạm Thị Hậu đã trình bày trong bài viết “Pháp luật bảo vệ quyền bí mật dữ liệu cá nhân trên thế giới và Việt Nam” trên Tạp chí khoa học Nhà nước và Pháp luật số 2/2017, trang 67, rằng việc bảo vệ quyền bí mật dữ liệu cá nhân là một vấn đề quan trọng không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn cầu Bài viết phân tích các khung pháp lý hiện hành và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi cá nhân trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ.

Nguyễn Ngọc Anh đã trình bày trong bài viết của mình về "Lý lịch tư pháp và bí mật đời tư liên quan đến tình trạng tiền án của cá nhân" trên Tạp chí khoa học Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về Lý lịch tư pháp, trang 8 Bài viết này cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ giữa lý lịch tư pháp và quyền riêng tư của cá nhân, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ thông tin cá nhân trong bối cảnh pháp lý hiện nay.

- Phùng Trung Tập, “Bí mật đời tư bất khả xâm phạm”, Bài đăng Tạp chí Luật học số 6/1996, trang 41;

Nguyễn Thị Huyền Trang (2014) trong luận văn Thạc sĩ về quyền con người đã nghiên cứu "Quyền được bảo vệ đời tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam" Nghiên cứu này thuộc Khoa luật - ĐHQGHN, Hà Nội, nhằm phân tích và so sánh các quy định liên quan đến quyền riêng tư trong bối cảnh pháp lý quốc tế và Việt Nam.

- Hoàng Lê Minh (2016), “Quyền bí mật đời tư trong Hiến pháp năm

2013 và thực tiễn tại Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;

Nguyễn Thị Ánh Hồng đã nghiên cứu về việc bảo vệ quyền đảm bảo bí mật và an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của công dân trong bối cảnh pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền riêng tư và an toàn thông tin cá nhân, đồng thời phân tích các quy định pháp lý hiện hành nhằm đảm bảo quyền lợi cho công dân Việc tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực này là cần thiết để nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người và xây dựng một môi trường pháp lý an toàn hơn cho mọi người.

Việt Nam”, Bài đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 2/2014, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, trang 51;

- TS Ngô Minh Hương, Nguyễn Đình Đức, “Quyền riêng tư của trẻ em trong không gian Internet tại Việt Nam”, Nxb chính trị quốc gia sự thật

Ngoài các công trình nêu trên, còn có một số tài liệu khác được đăng trên các tạp chí chuyên ngành và các website điện tử

Các nghiên cứu trước đây đã tạo nền tảng vững chắc và cung cấp thông tin quý giá cho các nghiên cứu tiếp theo về bảo vệ quyền riêng tư tại Việt Nam, bao gồm cả khoá luận này.

M ục đích, nhiệ m v ụ nghiên c ứ u

Mục đích của khoá luận là phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến việc bảo đảm quyền riêng tư, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo vệ quyền này tại Việt Nam trong tương lai Để thực hiện mục tiêu này, khoá luận sẽ tập trung vào một số nhiệm vụ cụ thể.

Nghiên cứu các quy định liên quan trong các văn kiện quốc tế như Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế (UDHR), Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), và Công ước về Quyền Trẻ em (CRC) giúp làm rõ nội hàm của quyền riêng tư trong pháp luật quốc tế Những văn kiện này cung cấp cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo vệ quyền riêng tư, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền này trong việc đảm bảo sự tôn trọng và bảo vệ nhân phẩm của mỗi cá nhân.

- Nghiên cứu các quy định có liên quan trong pháp luật Việt Nam để làm rõ nội hàm của quyền riêng tư tại Việt Nam

- Phân tích đánh giá mức độ tương thích giữa pháp luật Việt Nam và quốc tế trong vấn đề bảo đảm quyền riêng tư.

- Đề xuất những giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật Việt Nam về việc bảo đảm quyền riêng tư trong thời gian tới

Đối tượ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u

Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là các vấn đề lý luận, pháp lý, thực tiễn về bảo đảm quyền về sựriêng tư

Khoá luận tập trung vào nghiên cứu lý luận về quyền riêng tư, đồng thời phân tích các quy định pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam liên quan đến quyền này, với trọng tâm là các quy định cụ thể trong pháp luật Việt Nam.

Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứ u

Đề tài này được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, kết hợp với các lý thuyết về quyền tự nhiên và quyền pháp lý.

Tác giả áp dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến trong khoa học xã hội, bao gồm tổng hợp, thống kê, phân tích và so sánh, nhằm giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra.

Ý nghĩa lý luậ n, th ự c ti ễ n c ủa đề tài

Khóa luận đã đóng góp quan trọng vào việc củng cố kiến thức khoa học về quyền riêng tư, làm rõ các đặc điểm, bản chất và ý nghĩa của quyền này, đồng thời phân biệt quyền riêng tư với một số quyền con người khác Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra sự khác biệt trong quan điểm về quyền riêng tư giữa pháp luật thế giới và pháp luật Việt Nam Kết quả phân tích giúp lý giải nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trong việc bảo đảm quyền riêng tư.

Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện thực định và nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền riêng tư tại Việt Nam

Cấu trúc của khoá luận

Khóa luận có kết cấu chính gồm 3 chương (ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục), cụ thể như sau:

Chương 1 Các vấn đề lý luận cơ bản về quyền về sự riêng tư

Chương 2 Khung pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền về sự riêng tư

Chương 3 Nguyên nhân và giải pháp tăng cường bảo vệ quyền về sự riêng tư ở Việt Nam

Khái niệm sự riêng tư (privacy)

Sự riêng tư, hay đời tư, có nguồn gốc lịch sử sâu sắc và thường được hiểu là quyền kiểm soát cuộc sống cá nhân của mỗi người.

Theo Black Law Dictionary (tái bản lần thứ 9), sự riêng tư được định nghĩa là trạng thái tự do khỏi sự xâm phạm hoặc can thiệp tùy tiện vào hành động và suy nghĩ của cá nhân.

Trong tác phẩm “Tìm hiểu về quyền con người”, Wolfgang Benedek nhấn mạnh rằng sự riêng tư là khả năng tách biệt bản thân khỏi những yếu tố xung quanh, cho phép cá nhân vừa giữ khoảng cách với người khác, vừa có thể thể hiện chính mình.

Trong luận án tiến sĩ “Quyền bí mật đời tư trong pháp luật dân sự Việt Nam”, tác giả Lê Đình Nghị định nghĩa đời tư là thông tin liên quan đến cá nhân, bao gồm những khía cạnh thầm kín mà mỗi người giữ bí mật Sự riêng tư cho phép cá nhân sinh hoạt theo sở thích trong không gian riêng, tự do lựa chọn cách sống, cách ăn mặc và các hoạt động khác Tác giả cũng nhấn mạnh rằng thói quen, phong tục, tập quán và pháp luật là những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự riêng tư của mỗi cá nhân.

Về cơ bản, sự riêng tư bao gồm:

Bảo vệ dữ liệu cá nhân, bao gồm thông tin tín dụng, hồ sơ cá nhân và các tài liệu chính quyền lưu trữ về công dân, là một vấn đề quan trọng trong việc đảm bảo sự riêng tư Việc bảo vệ thông tin này không chỉ giúp ngăn chặn việc lạm dụng mà còn tăng cường sự tin tưởng của công dân đối với các tổ chức và cơ quan chính phủ.

Sự riêng tư về cơ thể là quyền bảo vệ thân thể của mỗi cá nhân trước các hình thức xâm phạm như xét nghiệm di truyền và thử nghiệm ma túy Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ thông tin cá nhân và quyền kiểm soát đối với cơ thể của chính mình Việc đảm bảo sự riêng tư về cơ thể không chỉ là vấn đề đạo đức mà còn là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng lòng tin trong mối quan hệ giữa cá nhân và các tổ chức y tế, pháp lý.

- Sự riêng tư về thông tin liên lạc: bao gồm bảo mật và sự riêng tư về thư từ, bưu phẩm, điện thoại,…

Sự riêng tư về nơi cư trú đề cập đến việc thiết lập các giới hạn nhằm bảo vệ không gian sống, nơi làm việc và các khu vực công cộng của cá nhân khỏi sự xâm nhập, bao gồm việc tìm kiếm thông tin, theo dõi bằng video và kiểm tra giấy tờ tùy thân.

Sự riêng tư cung cấp cho mỗi cá nhân một không gian an toàn để thể hiện bản thân mà không bị phán xét, cho phép tự do suy nghĩ mà không lo sợ bị kỳ thị hay phân biệt Đồng thời, nó cũng mang lại khả năng kiểm soát thông tin cá nhân, giúp mỗi người quyết định ai có quyền biết về cuộc sống của mình.

Khái niệm và đặc điểm của quyền về sự riêng tư

1.2.1 Khái ni ệ m c ủ a quy ề n v ề s ự riêng tư

Quyền về sự riêng tư, hay quyền bảo vệ đời tư, đã trở thành một trong những quyền con người quan trọng nhất trong thời hiện đại Liên Hợp Quốc đã công nhận quyền riêng tư là một quyền cần được bảo vệ, và nhiều quốc gia phát triển đã ban hành luật để bảo vệ quyền này Tuy nhiên, quyền riêng tư là một trong những quyền khó định nghĩa nhất, với các định nghĩa khác nhau tùy thuộc vào từng quốc gia và nền văn hóa.

14 bảo vệ dữ liệu cá nhân, trong đó sự riêng tư chính là việc quản lý thông tin cá nhân

Trong bối cảnh hiện nay, việc bảo vệ sự riêng tư được coi là một phương thức quan trọng để hướng dẫn xã hội trong việc hạn chế sự can thiệp vào cuộc sống cá nhân của mỗi người.

Mặc dù không có một định nghĩa duy nhất về quyền riêng tư, điều này không làm giảm tầm quan trọng của vấn đề Thực tế, mọi quyền con người đều có liên quan đến khía cạnh quyền riêng tư, cho thấy rằng quyền riêng tư là một phần thiết yếu trong việc bảo vệ và thực thi các quyền này.

Quyền riêng tư đã có lịch sử lâu dài và được thảo luận nhiều trước khi được công nhận là một quyền con người cơ bản trong các hiệp ước quốc tế và pháp luật Việt Nam.

Trong xã hội nguyên thủy, quyền riêng tư dường như không được coi trọng do lối sống bầy đàn và sự gắn kết cộng đồng, khiến con người không cảm thấy cần thiết phải bảo vệ sự riêng tư cá nhân Chỉ khi nhà nước chiếm hữu nô lệ ra đời, khái niệm "quyền về sự riêng tư" mới bắt đầu hình thành, điển hình là lời thề Hippocrate trong ngành y, yêu cầu các thầy thuốc phải giữ bí mật về hồ sơ bệnh án.

Quyền riêng tư, mặc dù đã được nhắc đến từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, nhưng chỉ thực sự được xác định rõ ràng trong thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản Điều này cho thấy rằng quyền riêng tư có nguồn gốc từ phương Tây và đã phát triển song song với sự tiến bộ của chủ nghĩa tư bản.

Vào năm 1361, các thẩm phán của Đạo luật Hòa bình ở Anh đã thiết lập cơ sở pháp lý cho việc bắt giữ Peeping Toms mà không xâm phạm quyền riêng tư Nghị sĩ William Pitt nhấn mạnh rằng "những người nghèo nhất có quyền thách thức để buộc các quan chức tôn trọng quyền riêng tư của họ" Dù ngôi nhà của họ có thể xập xệ, mái nhà có thể lắc lư, và bị ảnh hưởng bởi thiên nhiên, nhưng quyền riêng tư của họ vẫn được bảo vệ, ngay cả trước vua nước Anh.

Nhiều quốc gia đã ghi nhận và phát triển quyền riêng tư qua các thế kỷ Năm 1776, Quốc hội Thụy Điển ban hành Luật "Access to Public Records", yêu cầu thông tin công dân chỉ được sử dụng cho mục đích hợp pháp Đến năm 1792, Tuyên bố về Quyền của con người và công dân khẳng định rằng "tài sản tư nhân là bất khả xâm phạm và thiêng liêng".

Từ tiền lệ nước Anh, nhiều quốc gia lần lượt ghi nhận và phát triển quyền về sự riêng tư.

Trên phạm vi quốc tế, quyền về sự riêng tư được chính thức thừa nhận trong UDHR năm 1948, sau đó tiếp tục được khẳng định trong ICCPR năm

Quyền riêng tư, một trong những quyền cơ bản của con người, đã được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người từ năm 1966 và tiếp tục được nghiên cứu rộng rãi trên toàn cầu, đặc biệt là ở các quốc gia phát triển Kể từ cuối thế kỷ XIX, nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện, đặc biệt trong thập niên 60 của thế kỷ XX Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận rằng "quyền riêng tư là một khái niệm quá rộng và hầu như không thể định nghĩa." Sự quan tâm đến quyền riêng tư đã gia tăng nhanh chóng trong những năm 1960 và 1970, đặc biệt là với sự phát triển của công nghệ thông tin.

Quyền riêng tư được công nhận trong các văn bản pháp luật quốc tế như Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế (UDHR) và Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), khẳng định đây là một quyền con người cơ bản Quyền riêng tư không chỉ đại diện cho giá trị con người mà còn phản ánh nhu cầu tự nhiên của con người trong mối quan hệ với xã hội Ngoài ra, quyền riêng tư còn được coi là một quyền hiến định vì được quy định trong hiến pháp Để hiểu rõ hơn về quyền riêng tư, cần tham khảo quan điểm của các học giả trên thế giới, những người đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về quyền này.

Vào năm 1890, hai học giả người Mỹ, Samuel D Warren và Louis D Brandeis, đã xuất bản tác phẩm "Right to Privacy", được coi là nền tảng quan trọng cho sự phát triển của các quy định pháp luật về quyền riêng tư tại Hoa Kỳ Trong tác phẩm này, Warren và Brandeis không đưa ra định nghĩa cụ thể về quyền riêng tư, mà thay vào đó, họ sử dụng các thuật ngữ liên quan để khám phá khái niệm này.

Quyền được ở một mình, được Tòa Án Hoa Kỳ công nhận, nhấn mạnh sự cần thiết phải có luật bảo vệ sự riêng tư trong bối cảnh công nghệ và truyền thông phát triển mạnh mẽ, cho phép báo chí can thiệp sâu vào đời sống cá nhân Hai học giả nhấn mạnh rằng việc bảo vệ quyền riêng tư không chỉ là bảo vệ cá nhân khỏi tổn thương cảm xúc và tinh thần do xâm phạm riêng tư, mà còn khác biệt với việc bảo vệ danh dự nhân phẩm và tài sản sở hữu trí tuệ.

William Prosser (1898 – 1972) lại đưa ra hệ thống 4 hành vi được coi là xâm phạm quyền về sự riêng tư:

- Xâm phạm không gian riêng tư, đời sống riêng tư của người khác

- Công khai những thông tin cá nhân gây làm người khác tổn thương.

- Công khai thông tin cá nhân đặt người khác vào tình huống bị hiểu lầm

- Sử dụng hình ảnh, tên tuổi người khác để vụ lời

Học giả Alain Westin (1929-2013) trong tác phẩm "Privacy and Freedom" khẳng định rằng quyền riêng tư là yêu cầu của cá nhân, nhóm hoặc tổ chức trong việc quyết định thời điểm và phạm vi thông tin cá nhân được chia sẻ với người khác.

Robber Ellis Smith, biên tập viên của Tạp chí bảo mật, nhấn mạnh rằng mọi người đều khao khát một không gian vật lý hoàn toàn riêng tư, không bị gián đoạn hay xâm phạm.

17 trách nhiệm và kiểm soát được thời gian và cách thức tiết lộ thông tin về cá nhân thông tin về bản thân”[11]

Judith Jarvis Thomson (1975) cho rằng quyền riêng tư bao gồm nhiều quyền khác nhau, trong đó các quyền này thường đan xen và chồng chéo lên nhau Quyền riêng tư có thể được lý giải thông qua các quyền liên quan đến thân thể và quyền tài sản.

Nội dung và các phương thức bảo vệ quyền về sự riêng tư

Quyền riêng tư được hiểu là phạm vi các quyền được pháp luật bảo vệ, liên quan đến sự bảo mật thông tin cá nhân Tổ chức Bảo mật Quốc tế và Trung tâm Bảo mật Thông tin Điện tử đã công bố báo cáo "Sự riêng tư và nhân quyền", trong đó tổng hợp sự phát triển của pháp luật bảo vệ quyền riêng tư tại 50 quốc gia Báo cáo này nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền riêng tư trong bối cảnh bảo vệ nhân quyền.

Sự riêng tư về thông tin cá nhân liên quan đến việc áp dụng các quy tắc quản lý trong việc thu thập và xử lý dữ liệu cá nhân, bao gồm thông tin tín dụng, hồ sơ y tế và các tài liệu lưu trữ của chính quyền về công dân Khái niệm này thường được gọi là "bảo vệ dữ liệu".

Sự riêng tư về cơ thể đề cập đến việc bảo vệ thân thể vật chất của cá nhân trước các hình thức xâm hại như xét nghiệm di truyền, thử nghiệm ma túy và các nghiên cứu lâm sàng Việc đảm bảo quyền riêng tư này là cực kỳ quan trọng để bảo vệ sự an toàn và danh tiếng của người dân trong bối cảnh y tế và nghiên cứu.

Sự riêng tư về thông tin liên lạc là yếu tố quan trọng, bao gồm việc bảo mật và bảo vệ thông tin liên quan đến thư từ, bưu phẩm, điện thoại, thư điện tử và các hình thức truyền thông khác Việc đảm bảo an toàn cho các phương tiện giao tiếp này không chỉ giúp bảo vệ thông tin cá nhân mà còn tăng cường sự tin tưởng trong việc sử dụng các dịch vụ liên lạc.

Sự riêng tư về nơi cư trú đề cập đến việc thiết lập các giới hạn nhằm bảo vệ không gian sống, nơi làm việc và các khu vực công cộng khỏi sự xâm nhập Điều này bao gồm việc kiểm soát thông tin cá nhân, giám sát qua video và yêu cầu xuất trình giấy tờ tùy thân.

1.3.2 Các phương th ứ c b ả o v ệ quy ề n v ề s ự riêng tư

Hiện nay, dựa vào pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, có thể xác định ba phương thức chính để bảo vệ quyền riêng tư.

Thứ nhất, dựa vào quy định về bồi thường ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sựhay còn được gọi là các chế tài dân sự

Việc xử lý hành chính đối với các hành vi xâm phạm quyền riêng tư cần được thực hiện một cách cụ thể trong từng lĩnh vực, đồng thời áp dụng các biện pháp xử lý kỷ luật thích hợp.

Thứ ba, xử lý hình sự với các tội xâm phạm quyền về sự riêng tư thực sự nghiêm trọng (Chế tài hình sự)

VỀ BẢO VỆ QUYỀN VỀ SỰRIÊNG TƯ 2.1 Khung pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền về sựriêng tư

Quyền về sự riêng tư là một trong những quyền con người cơ bản, được công nhận trong nhiều văn kiện quốc tế như Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (UDHR) năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966, và Công ước về quyền của người khuyết tật.

Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD) năm 2007, cùng với các văn bản khu vực như Công ước Nhân quyền Châu Âu năm 1950, Tuyên bố Nhân quyền ASEAN năm 2012 (AHRD), Tuyên ngôn Châu Mỹ về các quyền và nghĩa vụ của con người năm 1948, và Hiến chương Châu Phi về quyền và phúc lợi của trẻ em, đều thể hiện cam kết bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên toàn cầu.

2.1.1 Quy ề n v ề s ự riêng tư trong các văn ki ệ n c ủ a Liên H ợ p Qu ố c

Quyền riêng tư đã được nhấn mạnh từ rất sớm, với sự công nhận đầu tiên tại Điều 12 của Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế (UDHR), khẳng định rằng không ai có thể bị xâm phạm một cách độc đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, hay thư tín, và mọi người đều có quyền được bảo vệ bởi pháp luật trước những xâm phạm này Quyền riêng tư không chỉ là một quyền độc lập mà còn liên quan mật thiết đến nhiều quyền khác như quyền về gia đình, nhà ở, danh dự và uy tín Tiếp theo, quyền này được củng cố trong Điều 17 của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), nhấn mạnh rằng không ai phải chịu sự can thiệp tùy tiện hoặc trái pháp luật vào đời sống riêng tư và mọi người đều có quyền được bảo vệ bởi pháp luật trước những hành vi xâm phạm như vậy.

Bình luận chung số 16 của Ủy ban Nhân quyền, thông qua tại phiên họp lần thứ 31 năm 1989, gồm 11 đoạn, nhấn mạnh mục đích bảo vệ quyền riêng tư và thực trạng bảo vệ quyền này ở các quốc gia Tài liệu giải thích các thuật ngữ và giới hạn của quyền riêng tư, đồng thời nêu rõ nghĩa vụ của nhà nước trong việc bảo vệ quyền này và khuyến nghị biện pháp thực thi hiệu quả Bình luận cũng làm rõ khái niệm "can thiệp tùy tiện" và "bất hợp pháp" vào quyền đời tư, trong đó "bất hợp pháp" chỉ sự can thiệp không dựa trên quy định pháp luật hợp lệ, còn "can thiệp tùy tiện" là hành động dựa trên quy định nhưng không phù hợp với mục đích của công ước Ngoài ra, Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã thông qua “Hướng dẫn về quy chế số hóa hồ sơ dữ liệu cá nhân” theo Nghị quyết số 45/95, nhấn mạnh rằng thông tin cá nhân không nên bị thu thập hoặc xử lý một cách bất công, bất hợp pháp và không được sử dụng trái với mục đích của Hiến chương Liên hiệp quốc.

Liên quan đến quyền về sự riêng tư của một số đối tượng đặc biệt có thể kể đến:

Điều 22 của Công ước về Quyền của Người Khuyết Tật (CRPD) khẳng định rằng người khuyết tật, bất kể nơi cư trú hay khu vực sinh sống, đều có quyền bảo vệ sự riêng tư trong cuộc sống cá nhân, gia đình, nơi ở và thông tin liên lạc Họ không được phép bị can thiệp trái pháp luật vào danh dự và uy tín của mình một cách tùy tiện.

Người khuyết tật có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp hoặc xâm phạm như vậy

Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 quy định tại Điều 16 quyền riêng tư của trẻ em, tương tự như Điều 17 ICCPR Theo đó, trẻ em không phải chịu sự can thiệp tùy tiện hay bất hợp pháp vào sự riêng tư, gia đình, nhà cửa, thư tín, cũng như danh dự và thanh danh của mình Trẻ em có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những can thiệp và xâm phạm này.

Liên Hợp Quốc đã đưa ra các hướng dẫn về HIV và quyền con người vào năm 1966, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền riêng tư cho những người nhiễm HIV/AIDS Đồng thời, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc cũng ban hành hướng dẫn về quy định hồ sơ cá nhân điện tử, nêu rõ các nguyên tắc mà các quốc gia cần tuân thủ trong việc xây dựng và quản lý hồ sơ dữ liệu cá nhân.

Nội dung quyền riêng tư đã được làm rõ qua các vụ việc cụ thể mà Uỷ ban nhân quyền (HRC) đã đưa ra phán quyết và khuyến nghị cho các quốc gia.

Vụ Pinkney kiện Canada (mã số 27/78) đã dẫn đến kết luận của HRC rằng hệ thống pháp luật hiện hành của quốc gia này chưa đủ mạnh để thiết lập một khuôn khổ pháp lý hiệu quả nhằm ngăn chặn sự can thiệp vào thư tín.

Vụ kiện của Tshisekedi chống lại nhà nước Zaire (mã số 241-242/87) đã dẫn đến kết luận của HRC rằng chính phủ Zaire đã xâm phạm uy tín của ông bằng cách buộc ông phải trải qua xét nghiệm tâm thần và vào cơ sở điều trị tâm thần, mặc dù trái với kết luận của cơ quan y tế Hành động này được xác định là vi phạm Điều 17 của Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế (UDHR).

Liên hợp quốc đã quy định chi tiết về quyền riêng tư, tuy nhiên vẫn thiếu một định nghĩa thống nhất và toàn diện về quyền này.

Quyền về sự riêng tư, mặc dù là một quyền con người quan trọng, không phải là quyền tuyệt đối theo Luật nhân quyền quốc tế Điều 29 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) quy định rằng quyền này có thể bị giới hạn để đảm bảo sự tôn trọng các quyền và tự do của người khác, cũng như đáp ứng nhu cầu về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong xã hội dân chủ Điều này tạo cơ sở cho việc xây dựng pháp luật ở mỗi quốc gia, nhằm đảm bảo sự hài hòa giữa quyền con người cá nhân và lợi ích chung của cộng đồng Hơn nữa, giới hạn này yêu cầu các nhà nước cân nhắc kỹ lưỡng khi xây dựng luật pháp về quyền con người, đặc biệt là trong những trường hợp xung đột giữa quyền bảo vệ đời tư và quyền tiếp cận thông tin, tự do báo chí, tự do ngôn luận.

2.1.2 Quy ề n v ề s ự riêng tư trong các văn bả n pháp lu ậ t nhân quy ề n ở c ấ p độ khu v ự c

Từng khu vực lại có quy định riêng về quyền về sự riêng tư, nhưng không trái với luật nhân quyền quốc tế

Công ước nhân quyền Châu Âu năm 1950 (ECHR) và nhiều án lệ của

Tòa án nhân quyền khu vực quy định rõ ràng về quyền riêng tư theo Điều 8 ECHR, bảo vệ đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở và thư tín Quyền này chỉ có thể bị hạn chế khi cần thiết cho an ninh quốc gia, an toàn công cộng hoặc lợi ích kinh tế, nhằm đảm bảo một xã hội dân chủ và công tác phòng chống rối loạn.

Mọi sự can thiệp của cơ quan công quyền vào sự riêng tư đều trái pháp luật, trừ khi nhằm bảo vệ sức khỏe, đạo lý hoặc quyền tự do của người khác Mặc dù Điều 8 khoản 2 ECHR không đề cập trực tiếp đến danh dự và uy tín của người khác, nhưng trong một số trường hợp, điều này có thể được hiểu là thuộc về “quyền và tự do của người khác” Điều 10 khoản 2 ECHR khẳng định rằng việc bảo vệ uy tín của người khác có thể là lý do hợp pháp để hạn chế quyền tự do ngôn luận.

ECHR không định nghĩa rõ ràng về cuộc sống riêng tư và quyền có không gian riêng tư, nhưng theo án lệ của Ủy ban nhân quyền Châu Âu, từ "nơi ở" trong Điều 8 ECHR bao gồm nơi cư trú của một cá nhân Nếu nguyên đơn buộc phải rời khỏi nơi ở trước đó và chuyển đến một nơi khác, như một căn lều, thì nơi này vẫn có thể được xem là nơi ở của họ Trong khi không gian văn phòng thương mại không được coi là "nơi ở," nếu văn phòng đó gắn liền với nơi ở theo nghĩa hẹp, chẳng hạn như văn phòng tại nhà riêng, thì việc lục soát văn phòng có thể vi phạm Điều 8 ECHR.

NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ QUYỀN VỀ SỰRIÊNG TƯ Ở VIỆT NAM

3.1 Nguyên nhân của những hạn chế trong việc bảo vệ quyền về sự riêng tư ở Việt Nam

Việt Nam, một quốc gia đang phát triển trong kỷ nguyên công nghệ, đang đối mặt với vấn đề xâm phạm quyền riêng tư Nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong việc bảo vệ quyền riêng tư tại đây, phản ánh sự cần thiết phải cải thiện các chính sách và quy định liên quan.

Nguyên nhân chủ quan chủ yếu dẫn đến xâm phạm quyền riêng tư là thái độ và nhận thức của các chủ thể Nhiều người dân Việt Nam chưa nhận thức đúng và đầy đủ về quyền riêng tư, chỉ có những hiểu biết cơ bản mà thiếu chiều sâu Sự thiếu chính xác trong nhận thức này dẫn đến nhiều hành vi xâm phạm quyền riêng tư một cách ngang nhiên Ngoài ra, một số cá nhân, dù hiểu rõ quyền riêng tư, vẫn vi phạm do tính tò mò hoặc nhu cầu cá nhân, thậm chí có trường hợp xâm phạm mà không có lý do cụ thể.

Sự phát triển của khoa học kỹ thuật mang lại nhiều lợi ích cho con người, như việc tiếp cận, thu thập, truyền đạt và lưu giữ thông tin Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đó, công nghệ cũng có thể xâm phạm quyền riêng tư của cá nhân Các phương tiện kỹ thuật hiện đại đang ngày càng ảnh hưởng đến cách mà thông tin được quản lý và bảo vệ.

Việc thu thập thông tin đời tư của người khác ngày càng trở nên dễ dàng, điều này đã tạo ra một nguyên nhân khách quan dẫn đến việc hạn chế quyền bảo vệ sự riêng tư.

Quá trình hội nhập và toàn cầu hóa đã tạo ra những thách thức trong việc bảo vệ quyền riêng tư tại Việt Nam Mặc dù đây là cơ hội để Việt Nam học hỏi từ các quốc gia khác về lập pháp và thực tiễn bảo vệ quyền riêng tư, nhưng cũng đồng thời mở ra cơ hội cho các tội phạm mới, như tội phạm mạng ăn cắp công nghệ và thông tin cá nhân, gây khó khăn trong việc kiểm soát.

Các quy định pháp luật về quyền riêng tư hiện nay vẫn chủ yếu mang tính nguyên tắc và hình thức, thiếu tính thực tiễn Điều này dẫn đến nhiều bất cập, chồng chéo và sự thiếu hụt cơ chế pháp lý cụ thể để bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân.

Chế tài xử lý hành vi xâm phạm quyền riêng tư tại Việt Nam hiện nay còn nhẹ và chủ yếu tập trung vào xử lý hành chính, dẫn đến hiệu quả răn đe thấp Các hành vi xâm phạm quyền riêng tư rất đa dạng, nhưng quy định pháp luật vẫn còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc tôn trọng và thực thi quyền này Một số cá nhân có kiến thức công nghệ cao thường xuyên xâm nhập trái phép vào thông tin cá nhân để trục lợi, trong khi một số nhà báo cũng lạm dụng thông tin riêng để vi phạm pháp luật Đồng thời, tình trạng nhiều người tự phơi bày đời tư mà không có biện pháp bảo vệ khiến họ trở thành mục tiêu cho những kẻ xấu lợi dụng.

Vào thứ Sáu, việc kiểm soát đạo đức nghề nghiệp trong ngành báo chí và truyền thông gặp nhiều hạn chế, dẫn đến khó khăn trong việc bảo vệ quyền riêng tư.

Sự buông lỏng trong công tác quản lý và chỉ đạo của một số cơ quan nhà nước đã gây cản trở cho việc bảo vệ quyền riêng tư Việc thiếu quyết liệt trong xử lý các hành vi xâm phạm quyền riêng tư đã tạo điều kiện cho những đối tượng vi phạm tiếp tục hành động.

Bảng 3.1 và 3.2 dưới đây trình bày kết quả điều tra về nguyên nhân dẫn đến hành vi xâm phạm quyền riêng tư tại TP Hồ Chí Minh, theo Báo cáo điều tra Xã hội học.

Bảng 3.1 Nguyên nhân chủ quan dẫn đến hành vi xâm phạmBMĐTngười khác ở người trưởng thành trẻ tuổi

STT Nội Dung Số người trả lời Tỉ lê % Thứ hạng Độ lệch chuẩn

1 Do nhận thức của tôi còn hạn chế 22 12,9 3

2 Do tôi chưa hiểu rõ thế nào là BMĐT 11 6,4 5

Do tôi chưa hiểu rõ thế nào là hành vi xâm phạm sự riêng tư 7 4,1 7

Do tôi không lường hết được các hậu quả của việc xâm phạm sự riêng tư 20 11,7 4 1,946

Do tôi nghĩ rằng có xâm phạm cũng không bị xử phạt 10 5,8 6

6 Cho rằng mình không xâm phạm 4 2,3 8

7 Do tôi thích thú và tò mò muốn biết 59 34,5 1

8 Do tôi có nhu cầu tìm hiểu 38 22,2 2

Nguồn: Tạp chí Khoa học ĐH Sư phạm Tp Hồ Chí Minh [15, tr.9]

Bảng 3.2 Nguyên nhân khách quan dẫn đến hành vi xâm phạm BMĐTngười khác ở người trưởng thành trẻ tuổi

Số người Tỉ lệ Thứ Độ

STT Nội dung lệch trả lời % hạng chuẩn

1 Vì có người ép buộc tôi 13 7,6 5

2 Vì có người thuê tôi 3 1,8 7

3 Vì người đó đã tiết lộ bí mật của tôi 16 9,4 4

4 Vì bạn bè hoặc người thân nhờ vả 17 9,9 3

5 Vì pháp luật hướng dẫn xử phạt hành 16 9,4 4 vi này chưa cụ thể

6 Vì những lí do khác 23 13,5 2

7 Không vì lí do khách quan nào 79 46,2 1

Nguồn: Tạp chí Khoa học ĐH Sư phạm TP Hồ Chí Minh [15,tr.1

3.2 Các giải pháp tăng cường bảo vệ quyền về sựriêng tư ở Việt Nam

3.2.1 Nhóm gi ả i pháp v ề m ặ t pháp lý

Hệ thống văn bản pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền riêng tư, mặc dù không phải là phương thức duy nhất Để nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền này, cần hoàn thiện và cụ thể hóa các quy định pháp luật về quyền con người và quyền công dân, bao gồm quyền riêng tư Việc phát huy quyền con người theo Hiến pháp 2013 đòi hỏi nghiên cứu và đề xuất ban hành một văn bản luật chung để điều chỉnh quyền riêng tư của công dân, cũng như sửa đổi các bộ luật như Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Báo chí.

- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các vấn đề cần thiết trong việc bảo vệ quyền về sựriêng tư trong Hiến pháp, Bộ luật dân sự,

- Ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành bảo vệ quyền về sự riêng tư trong các lĩnh vực y tế, giáo dục,…

Cần sớm ban hành một văn bản luật chung về quyền riêng tư của công dân, tức là Luật về quyền riêng tư, để định hình các chuẩn mực ứng xử cho cá nhân và tổ chức Việc này không chỉ giúp xác định rõ ràng quyền về sự riêng tư mà còn tạo cơ sở để quản lý và hạn chế việc khai thác thông tin cá nhân Trong quá trình xây dựng luật, có thể tham khảo kinh nghiệm từ các quốc gia như Hoa Kỳ và Nga, đồng thời cần cân nhắc các yếu tố đặc thù của pháp luật Việt Nam để đưa ra những quy định phù hợp.

Cần hoàn thiện và sửa đổi các quy định trong văn bản pháp luật chuyên ngành liên quan đến quyền riêng tư, đặc biệt là trong Bộ luật lao động, nơi chưa quy định rõ trách nhiệm của bên sử dụng lao động trong việc bảo mật thông tin cá nhân của người lao động Tương tự, các quy định về tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức cũng thiếu sự bảo vệ thông tin cá nhân trong quá trình thi tuyển Người thi tuyển và lao động thường phải cung cấp sơ yếu lý lịch hoặc tờ khai thông tin, trong đó có thể chứa những thông tin bí mật mà họ không muốn công khai Do đó, pháp luật cần thiết lập các quy định cụ thể nhằm bảo vệ quyền riêng tư và trách nhiệm của người sử dụng lao động cũng như các cơ quan nhà nước trong việc bảo mật thông tin của người lao động và người thi tuyển.

Ngoài những công tác xây dựng, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp lý, cũng cần những giải pháp mang tính xã hội, trong đó bao gồm:

Để nâng cao nhận thức của người dân về quyền riêng tư, cần sử dụng nhiều phương thức tuyên truyền và giáo dục hiệu quả Việc phổ biến kiến thức về quyền riêng tư không chỉ giúp pháp luật đi vào thực tiễn mà còn là giải pháp bền vững để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, giáo dục về quyền con người là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng một xã hội tôn trọng quyền riêng tư của mọi cá nhân.

Việc tuyên truyền cần được triển khai rộng rãi trên toàn quốc, nhắm đến tất cả cá nhân, gia đình, cơ quan và tổ chức trong xã hội Mục tiêu là nâng cao nhận thức và hành động của mọi người để bảo vệ quyền riêng tư Đặc biệt, cần tiếp tục cải thiện và nâng cao hiệu quả của các kênh thông tin, đồng thời thường xuyên nghiên cứu và đổi mới hình thức, nội dung cũng như phương pháp tuyên truyền.

Ngày đăng: 06/12/2021, 10:37

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Gudmundur Alfredsson & Asbjứrn Eide (1999), Tuyờn ngụn Qu ố c t ế Nhân quy ề n 1948 – M ụ c tiêu chung c ủ a nhân lo ạ i, Khoa Lu ật, Đạ i h ọ c Quốc gia Hà Nội, NXB Lao động – Xã hội, 2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuyên ngôn Quốc tếNhân quyền 1948 – Mục tiêu chung của nhân loại
Tác giả: Gudmundur Alfredsson & Asbjứrn Eide
Nhà XB: NXB Lao động – Xã hội
Năm: 1999
2. Hà Nguyên, Quyền riêng tư và được bảo mật thông tin của bệnh nhân , http://www.ykhoanet.com/binhluan/hanguyen/36.htm Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền riêng tư và được bảo mật thông tin của bệnh nhân
3. Hoàng Lê Minh (2016), Quy ề n bí m ật đời tư trong Hiến pháp năm 2013 và th ự c ti ễ n t ạ i Vi ệ t Nam, Lu ận văn thạc sĩ luậ t h ọc, Đạ i h ọ c Lu ậ t Hà N ộ i, Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền bí mật đời tư trong Hiến pháp năm 2013 và thực tiễn tại Việt Nam
Tác giả: Hoàng Lê Minh
Năm: 2016
4. Lê Đình Nghị (2007), Quy ề n bí m ật đời tư theo quy đị nh c ủ a pháp lu ậ t dân s ự Vi ệ t Nam, Luận văn tiến sĩ luật học, trường Đại học luật Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam
Tác giả: Lê Đình Nghị
Năm: 2007
5. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên) 2009, Giáo trình Lý luận và Pháp luật về Quyền Con người. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Lý luận và Pháp luật về Quyền Con người
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
6. Nguy ễ n Th ị Huy ề n Trang (2014), Quy ền đượ c b ả o v ệ đời tư trong pháp lu ậ t qu ố c t ế và pháp lu ậ t Vi ệ t Nam, Lu ận văn Thạc sĩ Pháp luậ t về quyền con người, Khoa luật – ĐHQGHN, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền được bảo vệ đời tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
Tác giả: Nguy ễ n Th ị Huy ề n Trang
Năm: 2014
7. PGS.TS Nguyễn Thị Quế Anh, PGS.TS Vũ Công Giao (2018), Sách tham kh ảo “ Ph ạ m vi và gi ớ i h ạ n c ủ a t ự do Internet, NXB Chính trị sự th ậ t qu ố c gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sách tham khảo “Phạm vi và giới hạn của tự do Internet
Tác giả: PGS.TS Nguyễn Thị Quế Anh, PGS.TS Vũ Công Giao
Nhà XB: NXB Chính trị sự thật quốc gia
Năm: 2018
9. Phùng Trung T ậ p, Bí m ật đời tư bấ t kh ả xâm ph ạ m , Bài đăng Tạ p chí Lu ậ t h ọ c s ố 6/1996, trang 41 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bí mật đời tư bất khả xâm phạm
12. Trung tâm Nghiên c ứ u Quy ền Con ngườ i và Quy ề n Công dân (2011), H ỏi đáp về Quy ền Con ngườ i, Khoa Lu ật, Đạ i h ọ c Qu ố c gia Hà N ộ i, NXB H ồng Đứ c Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hỏi đáp về Quyền Con người
Tác giả: Trung tâm Nghiên c ứ u Quy ền Con ngườ i và Quy ề n Công dân
Nhà XB: NXB Hồng Đức
Năm: 2011
13. Trung tâm Nghiên cứu Quyền Con người và Quyền Công dân (2011), Lu ậ t Nhân quy ề n qu ố c t ế - Nh ữ ng v ấn đề cơ bả n, Khoa Lu ật, Đạ i h ọ c Qu ố c gia Hà N ội, NXB Lao độ ng – Xã h ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Nhân quyền quốc tế - Những vấn đề cơ bản
Tác giả: Trung tâm Nghiên cứu Quyền Con người và Quyền Công dân
Nhà XB: NXB Lao động – Xã hội
Năm: 2011
14. Khoa Lu ậ t – Đạ i h ọ c Qu ố c gia Hà N ộ i (2012), Gi ớ i thi ệu Công ướ c v ề quy ề n dân s ự và chính tr ị , NXB H ồng Đứ c, Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giới thiệu Công ước vềquyền dân sự và chính trị
Tác giả: Khoa Lu ậ t – Đạ i h ọ c Qu ố c gia Hà N ộ i
Nhà XB: NXB Hồng Đức
Năm: 2012
15. Nguy ễ n Th ị T ứ, Đinh Quang Ngọc, Võ Nguyên Anh(2013), “Thự c trạng hành vi xâm phạm bí mật đời tư người khác của người trưởng thành tr ẻ tu ổ i ở thành ph ố H ồ Chí Minh”, T ạ p chí Khoa h ọ c, TP.H ồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng hành vi xâm phạm bí mật đời tư người khác của người trưởng thành trẻ tuổi ở thành phố Hồ Chí Minh”, "Tạp chí Khoa học
Tác giả: Nguy ễ n Th ị T ứ, Đinh Quang Ngọc, Võ Nguyên Anh
Năm: 2013
16. Vũ Công Giao, Phạ m Th ị H ậ u (2017), Pháp lu ậ t b ả o v ệ quy ề n bí m ậ t d ữ li ệ u cá nhân trên th ế gi ớ i và Vi ệ t Nam, Bài đăng Tạ p chí khoa h ọ c Nhà nướ c và Pháp lu ậ t s ố 2/2017, trang 67 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật bảo vệ quyền bí mật dữ liệu cá nhân trên thế giới và Việt Nam
Tác giả: Vũ Công Giao, Phạ m Th ị H ậ u
Năm: 2017
17. Anthony Bem: “ Le droit au respect de la vie privee: def inion, conditions et sanctions”.https://www.legavox.fr/blog/maitre-anthony-bem/droit-respect-privee-definition-conditions-16644.htm Sách, tạp chí
Tiêu đề: Le droit au respect de la vie privee: definion, conditions et sanctions
19. David Banisar, Simon Davies, Privacy and human righgts An International Survey of Privacy Laws and Practice, Privacy Internationalhttp://gilc.org/privacy/survey/intro.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: Privacy and human righgts An International Survey of Privacy Laws and Practice
20. Ruth Gavison, (1980), “Privacy and Limit of law”, The Yale Law Juornal, Vol 89, No 3, tr.424 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Privacy and Limit of law
Tác giả: Ruth Gavison
Năm: 1980
21. Samuel Warren and Louis Brandeis, (1890), “ Right to privacy”, Havard law review, Vol IV, No 5 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Right to privacy
11. Tiến sĩ Thái Thị Tuyết Dung – giảng viên Đại học luật TP Hồ Chí Minh, Quy ền riêng tư trong thời đạ i công ngh ệ thông tin.https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2012/07/02/quyen-ring-tu-trong-thoi-dai-cng-nghe-thng-tin/ (Truy c ậ p ngày 02/04/2019) Link
8. PGS.TS Nguy ễ n Th ị Qu ế Anh, PGS.TS Vũ Công Giao, TS. Ngô Minh Hương, TS Lã Khánh Tùng (2018), Sách tham kh ả o Quy ề n v ề s ự riêng Khác
10. Th ạ c s ỹ Đỗ H ả i Hà, Quy ền riêng tư của người lao độ ng, T ạ p chí Khoa h ọ c Pháp lý, s ố 3 năm 2009 Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 3.1. Nguyên nhân chủ quan dẫn đến hành vi xâm phạm BMĐTngười khác ở người trưởng thành trẻ tuổi - Khóa luận Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
Bảng 3.1. Nguyên nhân chủ quan dẫn đến hành vi xâm phạm BMĐTngười khác ở người trưởng thành trẻ tuổi (Trang 67)
Bảng 3.2. Nguyên nhân khách quan dẫn đến hành vi xâm phạm BMĐTngười khác ở người trưởng thành trẻ tuổi - Khóa luận Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
Bảng 3.2. Nguyên nhân khách quan dẫn đến hành vi xâm phạm BMĐTngười khác ở người trưởng thành trẻ tuổi (Trang 68)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w