1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

TỔNG QUAN VỀ CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC VỀ SỬ DỤNG CHỨNG TỪ ĐIỆN TỬ TRONG HỢP ĐỒNG QUỐC TẾ VÀ LỢI ÍCH KHI GIA NHẬP CƠNG ƯỚC

48 33 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tổng Quan Về Công Ước Liên Hợp Quốc Về Sử Dụng Chứng Từ Điện Tử Trong Hợp Đồng Quốc Tế Và Lợi Ích Khi Gia Nhập Công Ước
Trường học Cục Thương Mại Điện Tử Và Công Nghệ Thông Tin
Thể loại sách
Năm xuất bản 2014
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 48
Dung lượng 0,94 MB

Cấu trúc

  • I. Khái quát về Công ước 2005 (9)
    • 1. Bối cảnh ra đời của Công ước (10)
    • 2. Những nội dung chính của Công ước 2005 (13)
    • 3. Một số đặc điểm của Công ước 2005 (21)
    • 4. Mối liên quan với tư pháp quốc tế và pháp luật nội địa hiện hành (23)
  • II. Lợi ích của thành viên Công ước (26)
    • 1. Những ưu điểm của Công ước 2005 (27)
    • 2. Lợi ích khi gia nhập Công ước (30)
    • 3. Một số hạn chế của Công ước (34)
    • 1. Thuận lợi (36)
    • 2. Khó khăn (42)

Nội dung

Khái quát về Công ước 2005

Bối cảnh ra đời của Công ước

Công ước Liên hợp quốc về Sử dụng chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế được thông qua bởi Đại hội đồng Liên hợp quốc vào ngày 23 tháng 11 năm 2005 tại New York Để hoàn thiện Công ước, Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) đã tổ chức sáu phiên họp thảo luận từ năm 2002 để soạn thảo Dự thảo Công ước Sau khi hoàn tất, Công ước đã được mở cho các quốc gia ký kết tại Trụ sở của Liên hợp quốc.

Liên hợp quốc tại New York trong thời gian từ 16/1/2006 đến

16/1/2008 Trong thời gian này, 18 quốc gia tham gia ký kết

Công ước bao gồm Lời nói đầu và 25 điều được chia thành 4 chương Chương 1 (Điều 1-3) xác định phạm vi áp dụng và liệt kê các trường hợp ngoại lệ Chương 2 trình bày các điều khoản chung với định nghĩa về thuật ngữ (Điều 4-7) Chương 3 quy định việc sử dụng thông tin điện tử trong hợp đồng quốc tế, bao gồm công nhận pháp lý cho hợp đồng điện tử, yêu cầu về hình thức, thời gian và địa điểm liên quan đến chứng từ điện tử, lời mời đề nghị, sử dụng hệ thống tin nhắn tự động và xử lý lỗi nhập thông tin (Điều 7-14) Chương 4 chứa các điều khoản cuối cùng.

Công ước Liên hợp quốc về Sử dụng chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế được thiết lập để thúc đẩy việc áp dụng chứng từ điện tử trong thương mại quốc tế Mục tiêu của công ước là đảm bảo rằng các hợp đồng và chứng từ được trao đổi qua phương tiện điện tử có giá trị và hiệu lực thực thi tương đương với các bản giấy trong thương mại truyền thống.

Tính đến tháng 4 năm 2014, có 18 quốc gia đã ký kết và 2 quốc gia gia nhập Công ước, trong đó có 3 quốc gia đã phê chuẩn Công ước này chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 3 năm 2013 khi có đủ ba quốc gia phê chuẩn hoặc gia nhập, bao gồm Cộng hòa Dominican, Honduras và Singapore.

1 Xem Phụ lục 2, hoặc có thể cập nhật tại website của UNCITRAL http://www.unci- tral.org/uncitral/en/uncitral_texts/electronic_commerce/2005Convention_status.html

Bảng 1: Tình hình tham gia Công ước của các quốc gia

Quốc gia Ghi chú Ký Phê chuẩn

Gia nhập (*) Có hiệu lực Công hòa Trung Phi 27/02/2006

Cộng hòa Đô-mi-ni-ca 02/08/2012(*) 01/03/2013

Liên bang Nga 25/04/2007 06/01/2014 01/08/2014 Ả Rập Xê Út 12/11/2007

Singapore đã phê chuẩn công ước, tuyên bố rằng công ước này không áp dụng cho chứng từ điện tử liên quan đến hợp đồng mua bán, định đoạt bất động sản, hoặc lợi tức từ tài sản đó Ngoài ra, công ước cũng không áp dụng cho việc tạo ra hoặc thực hiện di chúc, cũng như việc tạo ra, thi hành hoặc thực thi khế ước và giấy ủy quyền.

Những nội dung chính của Công ước 2005

Tại phiên họp thứ 39, UNCITRAL đã công bố Bản giải thích các điều khoản trong Công ước 2, do Ban Thư ký UNCITRAL biên soạn và phát hành cùng với Công ước Bản giải thích này làm nổi bật những đặc điểm chính của Công ước.

Công ước nhằm mục đích cung cấp các giải pháp thực tiễn cho các vấn đề liên quan đến việc sử dụng phương tiện điện tử trong hợp đồng quốc tế.

Công ước không nhằm thiết lập các quy tắc thống nhất cho nội dung hợp đồng liên quan đến chứng từ điện tử Tuy nhiên, việc phân biệt giữa các vấn đề kỹ thuật và nội dung trong thương mại điện tử không phải lúc nào cũng khả thi Vì vậy, Công ước cũng bao gồm một số quy tắc nội dung.

Bản giải thích hiện hành do Ban Thư ký của Ủy ban Liên hiệp quốc về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL) biên soạn nhằm mục đích cung cấp thông tin, nhưng không phải là chú thích chính thức của Công ước.

PHẦN 1 chứ không chỉ là việc đơn thuần xác nhận lại nguyên tắc tương đương về chức năng khi mà các quy tắc mang tính nội dung là cần thiết để đảm bảo hiệu lực của các chứng từ điện tử.

- Về phạm vi áp dụng (điều 1 và 2)

Công ước quy định về việc sử dụng chứng từ điện tử trong việc hình thành và thực hiện hợp đồng giữa các bên có địa điểm kinh doanh khác nhau "Chứng từ điện tử" bao gồm các bản kê, tờ khai, yêu cầu hoặc thông báo, bao hàm thư chào và thư chấp thuận, được truyền tải qua các phương tiện điện tử, từ tính, quang học hoặc tương tự Từ "hợp đồng" trong bối cảnh này ám chỉ đến các thỏa thuận giữa các bên.

Công ước được áp dụng rộng rãi, bao gồm các thỏa thuận về trọng tài và những thỏa thuận mang tính ràng buộc pháp lý, bất kể chúng có được gọi là “hợp đồng” hay không.

Công ước áp dụng cho các hợp đồng quốc tế giữa các bên từ hai Nhà nước khác nhau, không yêu cầu cả hai Nhà nước phải là bên ký kết Tuy nhiên, Công ước chỉ có hiệu lực khi luật của một Nhà nước được áp dụng cho giao dịch giữa các bên, được xác định theo quy tắc trong luật tư pháp quốc tế của Nhà nước có thẩm quyền xét xử, trong trường hợp các bên chưa chọn luật áp dụng một cách hợp lệ.

Công ước không áp dụng cho các chứng từ điện tử liên quan đến hợp đồng ký kết vì mục đích cá nhân, gia đình hoặc hộ gia đình Khác với các loại trừ theo Điều 2(a) của Công ước CISG, sự loại trừ này là tuyệt đối, nghĩa là Công ước không áp dụng cho các hợp đồng cá nhân, ngay cả khi mục đích của hợp đồng không rõ ràng với bên kia.

Công ước không áp dụng cho một số giao dịch trong các thị trường tài chính cụ thể, tùy thuộc vào quy định và tiêu chuẩn ngành nghề Những giao dịch này bị loại trừ do lĩnh vực dịch vụ tài chính đã có các quy định kiểm soát chặt chẽ và tiêu chuẩn riêng để xử lý hiệu quả các vấn đề liên quan đến thương mại điện tử Hơn nữa, Công ước cũng không áp dụng cho các chứng từ có giá hoặc chứng từ xác minh quyền sở hữu, do khó khăn trong việc tạo ra công cụ điện tử tương đương có khả năng chuyển nhượng như chứng từ giấy.

- Về địa điểm của các bên và yêu cầu thông tin (Điều

Công ước quy định một bộ quy tắc về địa điểm của các bên, không yêu cầu họ phải công khai địa điểm kinh doanh nhưng thiết lập các giả định và quy tắc mặc định để xác định địa điểm của một bên Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định địa điểm kinh doanh liên quan của các bên.

Công ước áp dụng cách tiếp cận thận trọng đối với thông tin ngoại vi liên quan đến thông điệp điện tử, bao gồm địa chỉ giao thức Internet, tên miền và vị trí địa lý của hệ thống thông tin Những thông tin này thường có ít hoặc không có giá trị trong việc xác định vị trí địa lý của các bên.

- Về việc xử lý hợp đồng (Điều 8,11,12 và 13)

Theo Điều 8 của Công ước, nguyên tắc tại Điều 11 của Luật mẫu UNCITRAL về Thương mại điện tử khẳng định rằng các hợp đồng không bị mất giá trị pháp lý và hiệu lực thi hành chỉ vì được hình thành thông qua việc trao đổi chứng từ điện tử Tuy nhiên, Công ước không xác định thời điểm các thư chào và chấp thuận thư chào trở nên hợp lệ để hình thành hợp đồng.

Điều 12 của Công ước công nhận rằng hợp đồng có thể được hình thành thông qua các thao tác của hệ thống thông tin tự động mà không cần sự can thiệp của con người Tuy nhiên, Điều 11 làm rõ rằng việc một bên cung cấp ứng dụng tương tác để đặt hàng, bất kể hệ thống có tự động hoàn toàn hay không, không đồng nghĩa với việc bên đó có ý định bị ràng buộc bởi các đơn hàng được thực hiện qua hệ thống đó.

Công ước thống nhất nguyên tắc tránh thiết lập sự song hành giữa các quy định cho giao dịch điện tử và giao dịch giấy tờ, đồng thời áp dụng cách tiếp cận tạo thuận lợi thay vì áp đặt Điều 13 yêu cầu tuân thủ luật nội địa về các nghĩa vụ mà các bên có thể bị ràng buộc để đảm bảo tính khả thi của các điều khoản hợp đồng Tuy nhiên, Công ước cũng điều chỉnh vấn đề quan trọng liên quan đến lỗi nhập thông tin trong chứng từ điện tử, đặc biệt trong bối cảnh có nguy cơ cao về sai sót trong các giao dịch.

Một số đặc điểm của Công ước 2005

Công ước được xây dựng dựa trên các văn bản trước đó của UNCITRAL, đặc biệt là Luật mẫu về Thương mại điện tử và Luật mẫu về Chữ ký điện tử, được công nhận là các văn bản luật mẫu mực Ba quy tắc cơ bản trong xây dựng pháp luật thương mại điện tử, bao gồm không phân biệt đối xử, trung lập về kỹ thuật và tương đương về chức năng, cũng được thể hiện trong Công ước này.

Công ước áp dụng cho tất cả các chứng từ điện tử giữa các bên có địa điểm kinh doanh tại các Nhà nước khác nhau, với điều kiện ít nhất một bên thuộc Nhà nước ký kết (Điều 1) Ngoài ra, công ước có thể được áp dụng theo lựa chọn của các bên Các hợp đồng được ký kết vì mục đích cá nhân, gia đình hoặc hộ kinh doanh, chẳng hạn như các hợp đồng liên quan đến luật gia đình.

PHẦN 1 luật thừa kế, cũng như các giao dịch tài chính, các văn bản thương lượng, giấy tờ quyền sở hữu không nằm trong phạm vi áp dụng của Công ước (Điều 2)

Công ước thiết lập tiêu chí để đảm bảo sự tương đương về chức năng giữa chứng từ điện tử và chứng từ giấy, cũng như giữa phương thức xác thực điện tử và chữ ký tay (Điều 9) Đồng thời, Công ước quy định thời gian và địa điểm gửi nhận chứng từ điện tử, điều chỉnh các quy tắc truyền thống để phù hợp với môi trường điện tử, và sửa đổi các điều khoản trong Luật mẫu về Thương mại Điện tử (Điều 10).

Công ước quy định rằng các chứng từ điện tử không bị phủ nhận tính hợp pháp (Điều 8), cho phép các bên tham gia thực hiện hợp đồng qua hệ thống thông tin tự động mà không cần sự rà soát của một thực thể tự nhiên (Điều 12) Ngoài ra, một đề nghị giao kết hợp đồng qua phương tiện điện tử mà không gửi đến các bên cụ thể chỉ được xem như lời mời khởi đầu giao dịch, không phải là một đề nghị có tính ràng buộc (Điều 11).

Bên cạnh đó, Công ước cũng xây dựng những biện pháp khắc phục trong trường hợp thực thể tự nhiên mắc lỗi khi nhập

Mối liên quan với tư pháp quốc tế và pháp luật nội địa hiện hành

Công ước về Sử dụng chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế là một văn bản quan trọng giúp dỡ bỏ các rào cản chính thức đối với việc sử dụng chứng từ điện tử, coi chúng tương đương với chứng từ giấy Điều này hỗ trợ thúc đẩy việc áp dụng chứng từ điện tử trong thương mại quốc tế, đồng thời nâng cao tính hài hòa giữa các nguyên tắc thương mại điện tử Công ước cũng góp phần vào việc thống nhất trong việc ban hành các luật liên quan đến thương mại quốc tế.

PHẦN 1 mẫu của UNCITRAL liên quan đến thương mại điện tử tại các quốc gia, cũng như cập nhật và bổ sung một số điều khoản nhất định của các luật mẫu này trong bối cảnh hiện tại Cuối cùng, Công ước có thể cung cấp cho các Nhà nước chưa thông qua các quy định về thương mại điện tử các điều khoản luật pháp hiện đại, thống nhất và được soạn thảo kỹ lưỡng.

Việc áp dụng Công ước cho một giao dịch thương mại quốc tế phụ thuộc vào nguyên tắc luật pháp mà tòa án yêu cầu (lex fori) Nếu các nguyên tắc tư pháp quốc tế yêu cầu áp dụng luật của một Nhà nước ký kết để giải quyết tranh chấp, thì Công ước sẽ áp dụng luật của Nhà nước đó, bất kể vị trí của tòa án Ngoài ra, Công ước cũng được áp dụng khi các bên trong hợp đồng đã lựa chọn hợp pháp.

PHẦN 1 lệ các quy tắc của Công ước là luật áp dụng cho hợp đồng.Hơn nữa, các Nhà nước cũng có thể xem xét thông qua các quy định của Công ước ở mức độ quốc gia Quyết định này có thể thúc đẩy sự thống nhất và sự tận dụng các nguồn luật pháp cũng như nâng cao hơn nữa tính chắc chắn trong các giao dịch thương mại, đặc biệt là trong bối cảnh các phương tiện di động dùng để thực hiện các giao dịch điện tử ngày càng phổ biến rộng rãi Vì thế, các lãnh thổ có quyền tài phán mà chưa thông qua bất kỳ văn kiện pháp lý nào về thương mại điện tử đặc biệt được khuyến khích thông qua Công ước ở mức độ quốc gia.Nếu không, các chứng từ nội địa đơn thuần sẽ không được điều chỉnh bởi Công ước và tiếp tục được điều chỉnh bởi luật nội địa của những lãnh thổ này.

Lợi ích của thành viên Công ước

Những ưu điểm của Công ước 2005

a) Sự thống nhất và tiêu chuẩn hóa

Công ước nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng các quy tắc thống nhất nhằm loại bỏ rào cản cho việc sử dụng chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế Việc này không chỉ tăng cường tính chặt chẽ của quy định pháp lý mà còn nâng cao khả năng dự đoán trong thương mại Đồng thời, nó giúp các Nhà nước tiếp cận với các lộ trình thương mại hiện đại Về chữ ký, Công ước cũng đề cập đến tính chắc chắn trong các yêu cầu liên quan, đảm bảo tính hợp pháp và hiệu lực của hợp đồng.

Luật mẫu của UNCITRAL năm 1996 về Thương mại điện tử là một tiêu chuẩn quan trọng được ban hành vào thời điểm đó Tuy nhiên, văn bản này chỉ phản ánh nhận thức của các quốc gia về thương mại điện tử trong những năm đầu thập niên 90.

Luật mẫu dùng khái niệm “khi phù hợp với mục đích mà thông điệp điện tử được khởi tạo, trao đổi trong tất cả các trường hợp”.

Chữ ký điện tử đơn giản, như việc gõ tên ở cuối email, có thể ràng buộc người gửi khi được coi là chấp thuận hợp đồng Tuy nhiên, điều này cũng có thể dẫn đến tranh cãi về giá trị hợp đồng trong các trường hợp cụ thể.

PHẦN 2 xác nhận chữ ký đó là của chính họ thì những chữ ký “đơn giản” kiểu như vậy là không phù hợp và không có tính ràng buộc người gửi Công ước đã sửa lại quy định này, theo đó có thêm một khả năng “phải được chứng minh trong thực tế là có đầy đủ những chức năng của một phương pháp ký điện tử” c) Bên ký kết: “ý định” thay thế “chấp thuận”

Việc thay thế thuật ngữ “chấp thuận” bằng “ý định” trong các điều khoản thông tin của bên ký kết giúp làm rõ hơn về sự đồng ý của các bên Nhiều trường hợp cho thấy chữ ký chỉ chứng minh sự liên quan đến nội dung văn bản mà không nhất thiết thể hiện sự đồng ý với tất cả thông tin Theo Công ước, khái niệm “Chữ ký” cũng không luôn luôn đồng nghĩa với việc chấp thuận toàn bộ nội dung của chứng từ Do đó, cần mở rộng các định nghĩa để đảm bảo tính chính xác và rõ ràng trong việc hiểu và áp dụng các điều khoản.

Với một thập kỷ kinh nghiệm xây dựng văn bản pháp luật, Công ước được xây dựng với nhiều định nghĩa tiến bộ. e) Thời điểm gửi thông tin

Thời điểm gửi tin nhắn điện tử vào hệ thống thông tin độc lập có thể dẫn đến nhiều sai sót Trong hệ thống thư điện tử hiện đại, người gửi có khả năng dễ dàng kiểm soát và lấy lại các thư đã gửi, thậm chí từ hộp thư đến của người nhận Những quy định mới về quản lý thư điện tử cần được xem xét để giảm thiểu những rủi ro này.

Công ước đã giảm bớt mối lo ngại liên quan đến chứng từ điện tử bằng cách quy định rằng chứng từ này phải “rời khỏi hệ thống thông tin dưới sự kiểm soát của người khởi tạo” Thời điểm nhận chứng từ cũng được xác định rõ ràng.

Thời điểm nhận thông điệp điện tử được xác định khi người nhận có khả năng truy cập và nhận biết rõ ràng về chứng từ đã được gửi Quy định này đơn giản hơn so với cách xác định trước đây, vì nó không yêu cầu xác định thời điểm cụ thể của hệ thống thông tin mà người nhận sử dụng, như máy tính cá nhân hay nhà cung cấp dịch vụ mạng Điều này giúp làm rõ hơn về địa điểm gửi đi và địa điểm nhận trong quá trình trao đổi thông tin điện tử.

Các điều khoản quy định về địa điểm gửi đi và nhận chứng

PHẦN 2 từ điện tử trong Công ước đạt được sự đồng thuận cao và được cập nhật, sửa đổi cho phù hợp với bối cảnh phát triển nhanh chóng của các giao dịch điện tử h) Các hợp đồng tự động

Công ước bao gồm một điều khoản quan trọng liên quan đến việc các máy tính được lập trình tự động để hình thành và giao kết hợp đồng Điều khoản này giải quyết lo ngại về lỗi nhập thông tin, cho phép cá nhân rút bỏ thông tin đã nhập sai khi tương tác với hệ thống thông tin tự động, miễn là họ đáp ứng các điều kiện nhất định Ngoài ra, công ước cũng nhấn mạnh ý định rõ ràng trong việc áp dụng cho các tình huống hợp đồng.

Công ước mở rộng phạm vi áp dụng để phù hợp với nhiều tình huống hợp đồng khác nhau, tương tự như quy định trong Luật mẫu của UNCITRAL về Thương mại điện tử năm 1996, mặc dù Luật mẫu chỉ đề cập đến khái niệm “giao dịch”.

Lợi ích khi gia nhập Công ước

- Thứ nhất, việc gia nhập Công ước sẽ giúp thống nhất pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử của các quốc gia trên thế giới.

Công ước đã thống nhất hóa nhiều mâu thuẫn giữa các hệ thống pháp luật khác nhau, đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết xung đột pháp luật trong thương mại quốc tế và thúc đẩy sự phát triển của thương mại toàn cầu Khi gia nhập Công ước, các quốc gia sẽ được hưởng lợi ích từ việc giảm bớt xung đột pháp luật trong giao kết hợp đồng điện tử.

Hiện nay, số lượng thành viên của Công ước còn hạn chế do đây là một Công ước mới và thiếu các nghiên cứu sâu rộng Tuy nhiên, ngày càng nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm gia nhập Công ước, khi giao dịch thương mại điện tử ngày càng phổ biến và trở thành xu hướng kinh doanh tất yếu trong kỷ nguyên số hóa.

Việc gia nhập Công ước không chỉ hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng mà còn nâng cao quy định về hợp đồng điện tử tại mỗi quốc gia thành viên.

Mặc dù số lượng thành viên của Công ước hiện tại còn hạn chế, nhưng sự quan tâm từ nhiều quốc gia muốn gia nhập cho thấy ảnh hưởng tích cực của Công ước Công ước này chỉ áp dụng cho các giao dịch quốc tế, không bao gồm giao dịch nội địa, tuy nhiên, Luật mẫu đi kèm đã được xây dựng để quy định về các giao dịch nội địa.

Một quốc gia không thể tự ý thay đổi nội dung của Công ước, do đó khi gia nhập, các quốc gia phải tuân thủ toàn bộ các điều khoản, mặc dù có một số điều khoản cho phép loại trừ Luật mẫu đi kèm được soạn thảo cho các giao dịch nội địa cần xem xét các điều khoản của Công ước nhằm đảm bảo sự hài hòa giữa hai văn bản này.

Gia nhập Công ước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp liên quan đến các hợp đồng điện tử có yếu tố quốc tế.

Doanh nghiệp các quốc gia thành viên có thể tiết kiệm chi phí và giảm thiểu tranh chấp liên quan đến việc lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng điện tử, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh.

Khối COMESA và vấn đề gia nhập Công ước Liên hợp quốc về Sử dụng chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế

Khối thị trường chung Đông và Nam Phi (COMESA) được thành lập vào năm 1994, thay thế cho Khu vực thuế quan ưu đãi (PTA) trước đó COMESA hiện bao gồm 19 quốc gia thành viên độc lập, hợp tác nhằm xây dựng một khu vực hòa bình và thịnh vượng.

COMESA đang triển khai chương trình lập pháp nhằm hỗ trợ các quốc gia thành viên tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của thương mại điện tử Tổ chức này đã thực hiện nghiên cứu và tổ chức hội thảo về xây dựng pháp luật thương mại điện tử, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thiết lập khung pháp lý phù hợp trong cuộc họp của Hội đồng Bộ trưởng.

Tại Victoria Falls, Zimbabwe, các quốc gia thành viên COMESA đã đưa ra quyết định quan trọng về việc nhanh chóng gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về Sử dụng chứng từ điện tử.

COMESA gia nhập Công ước với tư cách là một Tổ chức Hội nhập Kinh tế khu vực sẽ tạo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật đối với giao dịch điện tử Các nước COMESA cũng được khuyến khích xem xét khả năng trở thành thành viên của sáu công ước liên quan tại Điều 20 của Công ước, nhằm tối ưu hóa luật thương mại toàn cầu Những công ước này đóng vai trò quan trọng trong việc hài hòa hóa thương mại, đặc biệt cho các khối hội nhập kinh tế như COMESA Việc thông qua Công ước Viên sẽ là bước tiến đáng kể trong quá trình này.

1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước

CISG) là một phần quan trọng trong việc hài hòa hóa các luật về mua bán hàng hóa của khu vực Điều này cũng giúp

COMESA đã tiến một bước quan trọng trong việc hài hòa hóa luật mua bán quốc tế, khi Công ước CISG được 74 quốc gia thông qua, đại diện cho 80% kim ngạch thương mại toàn cầu.

Một số hạn chế của Công ước

Hiện tại có bốn quan ngại về việc sử dụng Công ước Quan ngại thứ nhất liên quan đến điều khoản về sự đồng ý tại Đoạn

2 Điều 8 Điều khoản này có thể cản trở việc thực hiện nguyên tắc “tương đương chức năng” 4

Một trong những mối quan ngại chính liên quan đến thương mại điện tử là sự hiểu lầm về hoạt động và bản chất của nó, dẫn đến việc một số quốc gia áp đặt điều khoản về sự đồng ý Nhiều tổ chức yêu cầu chữ ký số, trong khi chữ ký điện tử hợp lệ có thể đáp ứng yêu cầu này Thêm vào đó, việc lạm dụng các loại trừ trong quy định pháp luật cũng là một vấn đề nghiêm trọng, như đã được cảnh báo bởi luật mẫu.

Tại Australia, quy định về Giao dịch Điện tử Khối Thịnh vượng chung bao gồm hơn 160 điểm loại trừ, trong đó nhiều quy định chỉ ra rằng bất kỳ tài liệu nào cần kiểm chứng, xác thực, xác minh hoặc làm chứng đều bị loại trừ.

Nhiều quốc gia và lãnh thổ có quyền tài phán thường hiểu sai về bản chất của văn bản pháp luật và việc áp dụng thông luật, đặc biệt là ở những nơi có hệ thống thông luật Khi các văn bản pháp luật hiện hành không áp dụng hoặc bị loại trừ, điều này không có nghĩa là các thành phần điện tử trở nên không hợp lệ Thực tế, điều này chỉ đơn giản cho thấy rằng văn bản pháp luật không quy định, dẫn đến việc áp dụng thông luật, một hệ thống pháp lý hầu như hoàn toàn ủng hộ các nguyên tắc thương mại điện tử.

See Alan Davidson, A Matter of Consent – How the Consent Requirement Thwarts

III Những thuận lợi và khó khăn khi

Việt Nam gia nhập Công ước

III Những thuận lợi và khó khăn khi Việt Nam gia nhập Công ước

Thuận lợi

i) Áp dụng các quy tắc chung khi sử dụng chứng từ điện tử

Thương mại quốc tế của Việt Nam đã liên tục tăng trưởng trong hơn hai thập kỷ qua, với tốc độ tăng trưởng trung bình vượt qua mức tăng trưởng GDP Xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, ngay cả trong giai đoạn suy thoái gần đây, kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn tiếp tục gia tăng Các doanh nghiệp Việt Nam đã nhanh chóng áp dụng công nghệ điện tử, đặc biệt là thiết bị kết nối Internet, để nâng cao hiệu quả kinh doanh Việc sử dụng chứng từ điện tử không chỉ cải thiện hiệu quả thương mại mà còn mở rộng cơ hội giao thương giữa các bên và thị trường xa xôi, góp phần thúc đẩy thương mại và phát triển kinh tế cả trong nước lẫn quốc tế.

Tuy nhiên, việc sử dụng chứng từ điện tử trong thương mại quốc tế gặp nhiều rủi ro, bao gồm các rủi ro liên quan tới các

PHẦN 3 vấn đề tạo ra bởi những mập mờ gắn với giá trị pháp lý của chứng từ điện tử được trao đổi trong bối cảnh hợp đồng quốc tế tạo ra trở ngại đối với thương mại quốc tế 6 Do đó, lợi ích lớn nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam là được áp dụng các quy tắc chung khi sử dụng chứng từ điện tử trong các hợp đồng thương mại quốc tế Lợi ích này đã được nhấn mạnh trong Nghị quyết của Đại Hội đồng Liên hợp quốc và Lời mở đầu của Công ước: “Công ước Liên hợp quốc về Sử dụng chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế thông qua các quy tắc chung nhằm xóa bỏ các trở ngại để sử dụng chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế, bao gồm các trở ngại có thể bắt nguồn từ các công cụ luật thương mại quốc tế hiện hành, sẽ tăng cường sự tin tưởng về mặt pháp lý và tính dễ dự đoán về mặt thương mại cho các hợp đồng quốc tế và có thể giúp các

6 Nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hợp quốc thông qua Công ước Liên hợp quốc về

Sử dụng Chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế

PHẦN 3 quốc gia tiếp cận tới các công cụ thương mại hiện đại” Công ước Liên hợp quốc về Sử dụng chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế cung cấp một giải pháp chung để xóa bỏ các trở ngại pháp lý để sử dụng chứng từ điện tử theo cách thức các quốc gia với các hệ thống khác biệt về pháp lý, xã hội và kinh tế có thể chấp nhận được”. ii) Giảm mức độ sử dụng luật của nước đối tác

Do nhiều lý do, doanh nghiệp Việt Nam thường gặp bất lợi trong việc đàm phán hợp đồng thương mại quốc tế Họ thường phải chấp nhận luật của đối tác hoặc luật do đối tác đề xuất làm cơ sở giải quyết tranh chấp.

Khi sử dụng chứng từ điện tử với nhiều đối tác quốc tế, doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu pháp luật của từng quốc gia, dẫn đến chi phí kinh doanh tăng cao và rủi ro lớn Tình huống trở nên phức tạp hơn khi đối tác đến từ các quốc gia có nhiều quyền tài phán, như trường hợp doanh nghiệp Canada, nơi doanh nghiệp Việt Nam phải xác định tỉnh cụ thể, chẳng hạn như Quebec Điều này khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong việc nắm bắt sự khác biệt về pháp luật thương mại điện tử giữa các quyền tài phán.

Khi tham gia Công ước Liên hợp quốc về Sử dụng chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế, doanh nghiệp Việt Nam có thể áp dụng các quy tắc của công ước này, trừ khi có thỏa thuận khác.

7 Tham khảo phần “Thực tế tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”, Báo

PHẦN 3 ước này với doanh nghiệp của các nước thành viên khác Ngay cả khi chưa gia nhập Công ước nếu các doanh nghiệp và các tổ chức trọng tài hay tòa án Việt Nam đã nắm chắc nội dung của nó, các doanh nghiệp có thể chủ động yêu cầu đối tác sử dụng Công ước như nguồn luật để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc sử dụng chứng từ điện tử Như vậy chi phí chung liên quan tới tìm hiểu nguồn luật giảm tới mức thấp nhất. iii) Thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và bổ sung, sửa đổi pháp luật thương mại điện tử trong nước

Việt Nam đang nỗ lực hội nhập kinh tế quốc tế nhanh chóng và toàn diện, thể hiện qua việc bổ sung và sửa đổi các quy định pháp luật kinh tế, thương mại để phù hợp với cam kết và thông lệ quốc tế Trong lĩnh vực thương mại điện tử, các quan điểm chung đang được phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững và hiệu quả.

PHẦN 3 nhà làm luật là hướng tới sự phù hợp cao nhất giữa luật trong nước với Luật mẫu và Công ước Liên hợp quốc về Sử dụng chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế do UNCITRAL soạn thảo Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân như khác biệt về ngôn ngữ, trình độ chuyên môn hạn chế, công nghệ phát triển quá nhanh nên pháp luật thương mại điện tử của Việt Nam, đặc biệt là Luật Giao dịch điện tử và Nghị định Thương mại điện tử, có thể không hoàn toàn phản ảnh chính xác và đầy đủ nội dung của các hai văn bản trên.

Hiện tại, do chưa có nhiều tranh chấp liên quan đến pháp luật thương mại điện tử trong việc giao kết hợp đồng, áp lực để rà soát và sửa đổi Luật Giao dịch điện tử cùng Nghị định Thương mại điện tử chưa cao Tuy nhiên, việc gia nhập Công ước sẽ tạo ra áp lực lớn đối với các cơ quan hành pháp, lập pháp, tư pháp, tổ chức trọng tài, cũng như các cơ sở nghiên cứu và giảng dạy, yêu cầu họ cần rà soát kỹ lưỡng pháp luật thương mại điện tử của Việt Nam và nghiên cứu sâu hơn về Công ước cũng như pháp luật thương mại điện tử của các đối tác thương mại lớn khác.

Quá trình thực thi Công ước và hoạt động thương mại quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam không bị ảnh hưởng lớn Bộ luật Dân sự quy định rằng trong các hợp đồng có yếu tố nước ngoài, khi xảy ra tranh chấp giữa luật trong nước và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, các quy định của điều ước quốc tế sẽ được ưu tiên áp dụng.

8 Đặc biệt khi Nghị định Thương mại điện tử mới được ban hành ngày 16 tháng 5 năm

PHẦN 3 iv) Chi phí gia nhập thấp

Chi phí gia nhập Công ước rất thấp, tạo ra sự khác biệt lớn so với các tổ chức kinh tế - thương mại quốc tế khác như WTO, APEC, ASEAN Việt Nam không cần thành lập cơ quan hay tổ chức nào khi gia nhập, và Công ước cũng không yêu cầu các nước thành viên phải báo cáo nghĩa vụ Thủ tục rút khỏi Công ước cũng rất đơn giản.

Mặc dù đã tham gia Công ước, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn có quyền miễn trừ áp dụng các điều khoản của Công ước nhờ nguyên tắc tôn trọng quyền tự do của các bên trong hợp đồng Họ có thể lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng là luật Việt Nam hoặc luật khác theo thỏa thuận với đối tác thương mại.

10 Điều 3, Công ước Về Sử dụng Chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế

Khó khăn

Việc gia nhập Công ước của Việt Nam mặc dù có nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn, đòi hỏi thời gian và nỗ lực lớn từ các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp Một trong những thách thức lớn là pháp luật trong nước về thương mại điện tử vẫn chưa hoàn thiện.

Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý cho quản lý thương mại điện tử, bao gồm việc quản lý hoạt động của các sàn thương mại điện tử và cấm các hành vi lợi dụng thương mại điện tử để thực hiện các hoạt động kinh doanh đa cấp bất chính Bên cạnh đó, luật hình sự cùng với một số văn bản dưới luật cũng đã quy định rõ ràng các hình phạt đối với các tội danh liên quan đến việc lợi dụng thương mại điện tử.

PHẦN 3 mại điện tử gây tổn hại lợi ích của các tổ chức, cá nhân, từ phạt hành chính tới các mức phạt cao hơn.

Kể từ khi Luật Giao dịch điện tử được ban hành vào năm 2005, pháp luật về sử dụng chứng từ điện tử chưa có sự tiến bộ đáng kể Nghị định thương mại điện tử mới ban hành năm 2013 cũng không mang lại sự thay đổi rõ rệt so với Nghị định thương mại điện tử số 57/2006/NĐ-CP, vẫn liên quan đến vấn đề chứng từ điện tử.

Chưa có cuộc rà soát quy mô lớn nào đánh giá sự phù hợp của Luật Giao dịch điện tử với thực tiễn và các quy định của UNCITRAL, cũng như tính nhất quán của luật này với các văn bản pháp luật khác, đặc biệt là những văn bản do cơ quan hành pháp ban hành Bên cạnh đó, cần chú ý đến sự khác biệt giữa pháp luật hợp đồng trong nước và quốc tế.

Pháp luật hợp đồng tại Việt Nam có những điểm khác biệt so với các quốc gia khác, đặc biệt là với các đối tác thương mại lớn Một trong những khác biệt nổi bật là quy định về việc đề xuất giao kết hợp đồng không cần gửi đến một người nhận cụ thể, cùng với các điều kiện để một đề xuất trở thành một đề nghị giao kết hợp đồng Sự khác biệt này đã được so sánh và phân tích giữa pháp luật hợp đồng thương mại Việt Nam và Công ước CISG.

Công ước CISG chỉ áp dụng cho thương mại hàng hóa, trong khi Công ước Liên hợp quốc về Sử dụng chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế điều chỉnh tất cả các loại hợp đồng thương mại, bao gồm cả hàng hóa và dịch vụ.

PHẦN 3 iii) Nguồn nhân lực yếu

Nguồn nhân lực tham gia thực thi Công ước Liên hợp quốc về Sử dụng chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế tại Việt Nam còn yếu, do nội dung cơ bản của Công ước chưa được giảng dạy tại các trường đại học, kể cả những trường uy tín về luật kinh tế và thương mại quốc tế Đội ngũ cán bộ tại các cơ quan nhà nước, tòa án, viện kiểm sát, tổ chức trọng tài, luật sư, công ty xuất nhập khẩu và các website bán hàng trực tuyến hầu như chưa có điều kiện để tìm hiểu về pháp luật thương mại điện tử quốc tế cũng như quy định của UNCITRAL.

Thậm chí, hầu như chưa xuất hiện những bản dịch chính thức, chính xác, tin cậy được phổ biến rộng rãi về Luật mẫu và

Nhận xét này xuất phát từ phỏng vấn trực tiếp của tác giả tại nhiều khóa tập huấn

Công ước Liên hợp quốc về Sử dụng chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế đang là một chủ đề ít được nghiên cứu, đặc biệt là về ảnh hưởng của nó đối với pháp luật thương mại điện tử tại Việt Nam Hơn nữa, hiện nay, Việt Nam vẫn còn thiếu kinh nghiệm trong việc xử lý các tranh chấp phát sinh từ việc áp dụng các văn bản này.

Các tòa án, tổ chức trọng tài và luật sư tại Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm trong việc xử lý các tranh chấp liên quan đến chứng từ điện tử trong hợp đồng Những vụ án trong nước chủ yếu tập trung vào việc lừa đảo qua thương mại điện tử, dẫn đến việc áp dụng các quy định của luật hình sự Hơn nữa, hệ thống pháp lý chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của công nghệ.

Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) đang phát triển với tốc độ nhanh chóng, và khi xây dựng Luật mẫu về Thương mại điện tử, UNCITRAL đã nỗ lực để duy trì nguyên tắc trung lập về công nghệ Tuy nhiên, sự thay đổi công nghệ cũng đang ảnh hưởng đáng kể đến các quy định pháp lý.

PHẦN 3 luật là điều không tránh khỏi Phản ảnh thực tế của thương mại điện tử toàn cầu từ khi ban hành Luật mẫu, Công ước Liên hợp quốc về Sử dụng chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế đã có một số thay đổi để theo kịp sự thay đổi đó (ví dụ như các điều khoản về chữ ký, thời điểm gửi chứng từ điện tử) Thời gian từ khi ban hành Luật mẫu tới khi ban hành Công ước khoảng mười năm, trong khi đó tính tới nay Công ước đã ra đời được tám năm với những thay đổi to lớn về công nghệ.

Sự phát triển của điện toán đám mây đã làm thay đổi cách hiểu về quy định liên quan đến “hệ thống thông tin dưới sự kiểm soát của người khởi tạo”.

Các doanh nghiệp và các luật sư, tổ chức trọng tài và tòa án Việt Nam vừa phải nhanh chóng nắm bắt đầy đủ các nội

PHẦN 3 dung của Công ước, vừa phải diễn giải nó trong thời đại những công nghệ như điện toán đám mây hay di động phát triển rất nhanh và được ứng dụng rộng rãi Do đó, Việt Nam cần tiến hành nghiên cứu sâu rộng về Công ước, sau đó đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến tới các doanh nghiệp, người dân, từng bước đưa Công ước đi vào thực tế để giải quyết các vấn đề pháp lý trong giao dịch thương mại điện tử.

Ngày đăng: 30/10/2021, 10:01

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1: Tình hình tham gia Công ước của các quốc gia - TỔNG QUAN VỀ CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC VỀ SỬ DỤNG CHỨNG TỪ ĐIỆN TỬ TRONG HỢP ĐỒNG QUỐC TẾ VÀ LỢI ÍCH KHI GIA NHẬP CƠNG ƯỚC
Bảng 1 Tình hình tham gia Công ước của các quốc gia (Trang 12)
Hình thành và thực hiện một hợp đồng. Từ “hợp đồng” trong - TỔNG QUAN VỀ CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC VỀ SỬ DỤNG CHỨNG TỪ ĐIỆN TỬ TRONG HỢP ĐỒNG QUỐC TẾ VÀ LỢI ÍCH KHI GIA NHẬP CƠNG ƯỚC
Hình th ành và thực hiện một hợp đồng. Từ “hợp đồng” trong (Trang 14)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w