1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Chuyên đề tốt nghiệp chuyên khoa cấp i thực trạng chăm sóc người bệnh sa sút trí tuệ tại bệnh viện tâm thần thái nguyên năm 2018

41 29 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 41
Dung lượng 393,95 KB

Cấu trúc

  • 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN (10)
    • 2.1. Cơ sở lý luận (10)
      • 2.1.1. Định nghĩa về sa sút trí tuệ (10)
      • 2.1.2. Chẩn đoán (11)
      • 2.1.3. Các giai đoạn của sa sút trí tuệ (12)
      • 2.1.4. Các yếu tố nguy cơ gây sa sút trí tuệ (13)
    • 2.2. Cơ sở thực tiễn (15)
      • 2.2.1. Thực trạng sa sút trí tuệ và bệnh Sa sút trí tuệ trên thế giới (15)
      • 2.2.2 Tình hình sa sút trí tuệ và bệnh Sa sút trí tuệ tại Việt Nam (15)
      • 2.2.3. Chất lượng cuộc sống của người bệnh Sa sút trí tuệ và người chăm sóc (17)
      • 2.2.4. Điều trị bệnh Sa sút trí tuệ (20)
    • 3.1. Sự hình thành và phát triển của bệnh viện Tâm Thần Thái Nguyên (27)
    • 3.2. Thực trạng công tác chăm sóc người bệnh sa sút trí tuệ (27)
    • 3.3. Các ưu nhược điểm (33)
      • 3.3.1. Ưu điểm (33)
      • 3.3.2. Nhược điểm (33)
      • 3.3.3. Nguyên nhân (33)
    • 4.1. Đối với bệnh viện (35)
    • 4.2. Đối với cán bộ y tế (35)
    • 4.3. Đối với người bệnh (35)
    • 4.4. Đối với gia đình (36)
    • 5.1. Thực trạng chăm sóc người bệnh sa sút trí tuệ tại Bệnh viện Tâm thần Thái nguyên (37)
    • 5.2. Giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh sa sút trí tuệ tại Bệnh viện Tâm thần thái nguyên (37)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (39)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Cơ sở lý luận

2.1.1.Định nghĩa về sa sút trí tuệ

Sa sút trí tuệ (SSTT) là tình trạng suy giảm trí nhớ cùng với rối loạn một hoặc nhiều chức năng nhận thức khác như thất ngôn, mất sử dụng động tác, mất nhận thức và rối loạn chức năng thực hiện Tình trạng này xảy ra ở những người trước đây có chức năng nhận thức và thần kinh bình thường, và sự suy giảm này đủ nghiêm trọng để ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của bệnh nhân.

Sa sút trí tuệ (SSTT) được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa là rối loạn tiến triển về trí nhớ và quá trình ý niệm hóa, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sống hàng ngày và kéo dài ít nhất sáu tháng SSTT gây tổn hại đến ít nhất một trong những chức năng như ngôn ngữ, tính toán, phán đoán, và nhận thức, trở thành nỗi ám ảnh của người cao tuổi Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tàn tật và tử vong ở người lớn tuổi Cần phân biệt SSTT với quên lành tính do tuổi, một tình trạng giảm trí nhớ tự nhiên do quá trình lão hóa, nơi bệnh nhân vẫn có thể duy trì hoạt động hàng ngày nếu được hỗ trợ và động viên.

Theo báo cáo đánh giá gánh nặng bệnh tật của Tổ chức Y tế Thế giới năm

Năm 2003, tỷ lệ người mắc hội chứng suy giảm trí tuệ (SSTT) ở người từ 60 tuổi trở lên chiếm 11,2%, cao hơn so với đột quỵ não (9,5%), các bệnh rối loạn cơ xương khớp (8,9%), bệnh tim mạch (5%) và tất cả các thể ung thư (2,4%) Tỷ lệ mắc SSTT tăng theo độ tuổi, với tỷ lệ hiện mắc trung bình gấp đôi sau mỗi khoảng thời gian năm ở các khu vực khác nhau trên thế giới.

Có nhiều nguyên nhân gây ra sa sút trí tuệ (SSTT), trong đó bệnh Alzheimer, SSTT do nguyên nhân mạch máu, SSTT thuỳ trán-thái dương và SSTT thể Lewy là những loại phổ biến Bệnh sa sút trí tuệ chiếm từ 50-70% các trường hợp mắc bệnh, trong khi SSTT do mạch máu chiếm khoảng 20-30% Nghiên cứu gần đây cho thấy có sự chồng chéo giữa hai loại SSTT này, đặc biệt ở nhóm người cao tuổi.

* Tiêu chuẩn chẩn đoán sa sút trí tuệ theo bảng Phân loại quốc tế các Bệnh tật (ICD- 10) [5], [16]

- Suy giảm trí nhớ ngắn hạn(gần) và trí nhớ dài hạn (xa)

Có ít nhất một trong các bất thường sau đây: suy giảm khả năng tư duy trừu tượng, giảm phán đoán, cũng như các rối loạn khác liên quan đến chức năng thần kinh cao và thấp, và biến đổi nhân cách.

- Suy giảm quan hệ xã hội nghề nghiệp do rối loạn về trí nhớ và trí tuệ ở trên gây ra

- Không xuất hiện trong bối cảnh bị mê sản

- Có sự hiện diện của các yếu tố sau đây

+ Có bằng chứng bất thường về thực thể đã gây ra những suy giảm về trí tuệ và suy giảm về chức năng trí tuệ

Các suy giảm về trí nhớ và chức năng trí tuệ không là một hệ quả của bệnh tâm thần khác

* Tiêu chuẩn chẩn đoán sa sút trí tuệ theo Sách Thống kê Chẩn đoán các Rối loạn tâm thần (DSM) [9], [16]

- Suy giảm trí nhớ (mất khả năng thu nhận các thông tin mới và mất khả năng nhớ lại các thông tin vừa mới tiếp nhận

- Một hoặc nhiều các rối loạn nhận thức sau:

+ Mất ngôn (rối loạn ngôn ngữ) (aphasia/languge disturbance)

+ Mất dùng động tác (apraxia), không có khả năng thực hiện các động tác mặc dù chức năng vận động bình thường

+ Mất nhận biết (agnosia), không có khả năng nhận ra và xác định những đồ vật mặc dù chức năng vận động bình thường

+ Rối loạn khả năng thực hiện nhiệm vụ (ví dụ lên kế hoạch, tổ chức, phối hợp trìu tượng hóa)

Suy giảm nhận thức theo các tiêu chuẩn (1) và (2) gây ra những cản trở lớn trong sinh hoạt hàng ngày và giao tiếp xã hội, tình trạng này ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn.

Có những dấu hiệu và triệu chứng thần kinh rõ ràng, như tăng phản xạ gân xương, bất thường về dáng đi, yếu co cứng các chi một bên, và phản xạ da gan bàn chân dương tính Ngoài ra, có thể có bằng chứng rõ ràng về bệnh mạch máu não trong bệnh sử, khám lâm sàng hoặc các xét nghiệm cận lâm sàng, chẳng hạn như liên quan đến nhồi máu não.

- Không có biểu hiện của tình trạng mê sảng

2.1.3 Các giai đoạn của sa sút trí tuệ

Triệu chứng đầu tiên và nổi bật nhất của sa sút trí tuệ là suy giảm trí nhớ, với bệnh tiến triển từ hai đến mười năm, dẫn đến mất khả năng nhận thức, trí tuệ và cuối cùng là khả năng sống độc lập Người bệnh sẽ phụ thuộc vào người khác và có nguy cơ tử vong do các bệnh nhiễm khuẩn Việc phân chia giai đoạn sa sút trí tuệ rất quan trọng cho công tác nghiên cứu và điều trị, giúp quản lý và chăm sóc bệnh nhân hiệu quả hơn Hiện nay, cách phân chia giai đoạn phù hợp nhất dựa trên mức độ rối loạn chức năng nhận thức, ảnh hưởng đến các hoạt động hàng ngày và điểm kiểm tra tâm trạng Folstein.

* Sa sút trí tuệ giai đoạn sớm

Triệu chứng chính của bệnh nhân là giảm trí nhớ gần và trí nhớ ngắn hạn, thường thể hiện qua việc nhắc lại câu hỏi đã hỏi nhiều lần hoặc quên đồ dùng cá nhân Họ có thể lo lắng về việc bị mất cắp do tình trạng quên này Ngoài ra, việc quên từ ngữ thường dùng khiến người bệnh phải diễn đạt một cách vòng vo, gây khó khăn trong giao tiếp hàng ngày.

Khăn quàng là một vật quấn quanh cổ áo, nhưng trong bối cảnh cuộc sống hàng ngày, việc quản lý các hoạt động như lái xe, quản lý nhà cửa và tài chính trở nên khó khăn hơn Giai đoạn sớm của sa sút trí tuệ thường đi kèm với sự thay đổi nhân cách, rối loạn cảm xúc và suy giảm khả năng đánh giá Người bệnh có thể trải qua cảm xúc dao động giữa trầm cảm và hưng phấn, cùng với những thay đổi tính cách như dễ nóng giận và khó tính hơn Trong giai đoạn này, họ vẫn có khả năng bù đắp cho các thiếu sót về trí nhớ trong môi trường gia đình quen thuộc, nhưng sẽ dễ dàng bộc lộ các vấn đề nhận thức và hành vi khi đối mặt với tình huống mới.

* Sa sút trí tuệ giai đoạn trung gian

Người bệnh gặp khó khăn trong việc thực hiện các công việc hàng ngày như tắm rửa, mặc quần áo và vệ sinh cá nhân, dẫn đến rối loạn định hướng nghiêm trọng về không gian và thời gian Họ có thể bị lạc ngay cả trong chính ngôi nhà của mình và dễ bị té ngã Trong những trường hợp nặng hơn, người bệnh có thể trải qua hoang tưởng, đặc biệt là hoang tưởng bị hại, khiến họ ngày càng trở nên nghi kỵ với những người xung quanh.

* Sa sút trí tuệ giai đoạn nặng

Người bệnh hoàn toàn phụ thuộc vào người khác trong các hoạt động hàng ngày như ăn uống, vệ sinh cá nhân và di chuyển Họ không còn nhận ra người thân và mất khả năng vận động phản xạ, như nuốt, dẫn đến nguy cơ rối loạn dinh dưỡng và sặc thức ăn, có thể gây viêm phổi Việc nằm liệt giường cũng có thể khiến người bệnh bị loét da Tuy nhiên, sự tiến triển này có thể được chậm lại nhờ vào sự chăm sóc điều dưỡng tích cực Người bệnh sa sút trí tuệ có nguy cơ tử vong do các bệnh nhiễm trùng ở đường hô hấp, da và đường tiết niệu.

2.1.4.Các yếu tố nguy cơ gây sa sút trí tuệ

Tuổi tác là một yếu tố nguy cơ không thể kiểm soát đối với bệnh Alzheimer, với nguy cơ phát triển bệnh này tăng gấp đôi sau mỗi năm từ độ tuổi 65.

Các đột biến gen đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu sự phát triển của bệnh Alzheimer, bao gồm cả các trường hợp khởi phát muộn và sớm.

Theo báo cáo của NIA, bệnh Alzheimer khởi phát sớm, với triệu chứng xuất hiện ở độ tuổi 30, 40 hoặc 50, thường liên quan đến đột biến gen di truyền từ cha hoặc mẹ.

- Không có đột biến nào gây bệnh khởi phát muộn, nhưng có một số đột biến gen làm tăng - và một số khác làm giảm - nguy cơ của bạn

Cơ sở thực tiễn

2.2.1 Thực trạng sa sút trí tuệ và bệnh Sa sút trí tuệ trên thế giới

Tuổi tác là yếu tố quan trọng trong việc gia tăng tỷ lệ mắc sa sút trí tuệ (SSTT), với tỷ lệ mắc bệnh tăng gần gấp đôi mỗi năm, từ 1,5% ở độ tuổi 60-69 lên 40% ở độ tuổi 90 Theo ước tính, tỷ lệ mắc SSTT toàn cầu ở người từ 60 tuổi trở lên là 3,9%, với các con số cụ thể như 1,6% ở Châu Phi, 3,9% ở Đông Âu, 4,0% ở Trung Quốc, 4,6% ở Mỹ Latinh, 5,4% ở Tây Âu và 6,4% ở Bắc Mỹ Bệnh Alzheimer là nguyên nhân phổ biến nhất, chiếm từ 50-70%, tiếp theo là sa sút trí tuệ do mạch máu Tổ chức Y tế Thế giới báo cáo hiện có khoảng 35,6 triệu người mắc SSTT trên toàn thế giới, con số này dự kiến sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030 và hơn ba lần vào năm 2050 Mặc dù tỷ lệ mắc mới ở các nước phát triển cao hơn, nhưng phần lớn người mắc sống ở các nước đang phát triển, với Trung Quốc và khu vực Tây Thái Bình Dương có số người mắc cao nhất Tỷ lệ tăng người bệnh ở các nước đang phát triển cao gấp ba đến bốn lần so với các nước phát triển, dự báo tỷ lệ người mắc sẽ tăng từ 61% (năm 2000) lên 71% (năm 2040).

2.2.2 Tình hình sa sút trí tuệ và bệnh Sa sút trí tuệ tại Việt Nam

Sa sút trí tuệ đang ngày càng thu hút sự chú ý của xã hội và các nhà nghiên cứu tại Việt Nam Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện ở các vùng miền khác nhau của đất nước Chẩn đoán bệnh sa sút trí tuệ chủ yếu dựa vào các phương pháp lâm sàng, có thể thực hiện đơn độc hoặc kết hợp với các thể bệnh khác.

60 - 90% các trường hợp sa sút trí tuệ được báo cáo [1], [15]

Năm 1998, Lương Hữu Thông và cộng sự đã tiến hành khảo sát hơn 100 người cao tuổi tại phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, và phát hiện tỷ lệ mắc bệnh sa sút trí tuệ là 6%.

Khảo sát của Trần Viết Nghị và cộng sự tại Viện Sức khoẻ Tâm thần năm 2000 cho thấy tỷ lệ mắc rối loạn sức khỏe tâm thần trong tổng dân số là 0,64%, trong khi tỷ lệ này ở người cao tuổi (≥ 60 tuổi) đạt 7,9%, dựa trên mẫu 8.956 người cao tuổi tại hai phường ở thành phố Thái Nguyên.

Khảo sát của Nguyễn Kim Việt và cộng sự trong Dự án Bảo vệ sức khoẻ tâm thần cộng đồng đã chỉ ra rằng tỷ lệ mắc bệnh Sa sút trí tuệ (F00-F04 theo ICDX) ở người già là 0,78%, dựa trên mẫu 78.242 người từ 9 cụm dân cư có đặc điểm kinh tế, xã hội và địa lý khác nhau.

Một khảo sát khác được Bệnh viện Tâm Thần tiến hành trên 258 người từ

Một nghiên cứu được thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ mắc rối loạn tâm thần (SSTT) ở người từ 65 tuổi trở lên là 7,8% Bên cạnh đó, nghiên cứu của Bệnh viện Lão khoa Trung ương về tỷ lệ mắc và các yếu tố liên quan đến SSTT ở người cao tuổi tại huyện Ba Vì, Hà Nội trong giai đoạn 2005 - 2006 cũng đã chỉ ra những vấn đề tương tự.

60 tuổi trở lên) sống tại cộng đồng có SSTT là 4,63% Cứ sau mỗi khoảng cách

Tỷ lệ mắc bệnh sa sút trí tuệ ở người cao tuổi đã tăng 1,78 lần khi đến tuổi 5 Kể từ năm 2005, Bệnh viện Lão khoa Trung ương đã thành lập “Đơn vị nghiên cứu về Trí nhớ và Sa sút trí tuệ”, quy tụ các chuyên gia trong lĩnh vực lão khoa, thần kinh, tâm thần và sinh học phân tử Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm cung cấp kết quả ứng dụng cho công tác chẩn đoán và điều trị bệnh Alzheimer cũng như sa sút trí tuệ Một nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ học sa sút trí tuệ và suy giảm nhận thức nhẹ (MCI) ở người cao tuổi tại Hà Nội cho thấy tỷ lệ người cao tuổi mắc sa sút trí tuệ tại xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn là 5,1%.

410 người cao tuổi, ở phường Phương Mai quận Đống Đa, Hà Nội là 3,2% trong tổng số 556 người cao tuổi [13]

Mặc dù chưa có một điều tra đại diện nào về tình trạng sa sút trí tuệ ở người cao tuổi tại Việt Nam, nhưng các nghiên cứu hiện có cho thấy tỷ lệ mắc bệnh này tương đương với các quốc gia khác trong khu vực.

2.2.3 Chất lượng cuộc sống của người bệnh Sa sút trí tuệ và người chăm sóc

Chất lượng cuộc sống của người bệnh sa sút trí tuệ, đặc biệt là trong bệnh Alzheimer, là một yếu tố quan trọng cần được đánh giá Việc đánh giá chất lượng cuộc sống (QOL – AD) giúp xác định mức độ ảnh hưởng của bệnh đến sinh hoạt hàng ngày và tâm lý của người bệnh Các phương pháp đánh giá này không chỉ cung cấp thông tin về tình trạng sức khỏe mà còn hỗ trợ trong việc cải thiện chất lượng chăm sóc và can thiệp cho bệnh nhân.

Bộ công cụ Đánh giá chất lượng cuộc sống trong bệnh Sa sút trí tuệ (QOL–AD) được thiết kế để phản ánh các lĩnh vực chất lượng cuộc sống ở người cao tuổi, dựa trên nghiên cứu y văn về lão khoa Các tiêu chí đã được xem xét bởi bệnh nhân Alzheimer, người chăm sóc, người trưởng thành không mắc bệnh và chuyên gia để đảm bảo tính chính xác Thang điểm bao gồm 13 câu hỏi đánh giá sức khỏe thể lực, tính tình, trí nhớ, khả năng hoạt động, mối quan hệ cá nhân, tham gia hoạt động có ý nghĩa, tình trạng tài chính và đánh giá tổng thể về bản thân Câu trả lời sử dụng thang điểm Likert từ 1 đến 4, với tổng điểm từ 13 đến 52, điểm số cao hơn tương ứng với chất lượng cuộc sống tốt hơn Ưu điểm của bộ công cụ này là tính ngắn gọn và khả năng đánh giá chất lượng cuộc sống ở các giai đoạn khác nhau của bệnh Tuy nhiên, nhược điểm là phụ thuộc vào khái niệm chất lượng cuộc sống, có thể không được một số nhà nghiên cứu ủng hộ do bao gồm cả trí nhớ và khả năng chức năng Người bệnh và người chăm sóc có thể hoàn thành bộ công cụ trong vòng 10 phút.

Theo nghiên cứu của Inoye, chất lượng cuộc sống của người bệnh sa sút trí tuệ thấp hơn đáng kể so với những người cao tuổi không mắc bệnh này Cụ thể, điểm chất lượng cuộc sống của người cao tuổi không bị sa sút trí tuệ là 40,18, trong khi điểm của người bệnh chỉ đạt 29,32 (p

Ngày đăng: 03/09/2021, 10:19

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN