Cơ sở lý luận và thực tiễn về QL vốn đầu tư XDCB
Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm liên quan
Xây dựng cơ bản là quá trình tạo ra tài sản cố định thông qua các hoạt động như khảo sát, thiết kế, xây dựng và lắp đặt máy móc thiết bị Kết quả của những hoạt động này là các tài sản cố định với năng lực sản xuất nhất định, phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế.
Xây dựng cơ bản là quá trình đổi mới và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất vật chất Quá trình này bao gồm các hình thức như xây dựng mới, xây dựng lại, khôi phục và mở rộng các tài sản vật chất (Bùi Mạnh Hùng, 2004).
2.1.1.2 Khái niệm đầu tư XDCB Đầu tư XDCB là hoạt động đầu tư thực hiện bằng cách tiến hành xây dựng mới tài sản cố định, bao gồm các hoạt động đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ bản (khảo sát, thiết kế, tư vấn xây dựng, thi công xây lắp công trình, sản xuất và cung ứng thiết bị vật tư xây dựng) nhằm thực hiện xây dựng các công trình (Phạm Quỳnh Trang, 2003) Đầu tư được hiểu là việc bỏ vốn vào các hoạt động kinh tế xã hội để đạt mục đích (mục tiêu) thu được lợi ích dưới các hình thức khác nhau trong tương lai
Trong đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB), việc đầu tư vốn được xác định rõ ràng và giới hạn trong việc tạo ra các sản phẩm công trình xây dựng Những sản phẩm này bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng thiết yếu cho nền kinh tế, như hệ thống giao thông vận tải, hồ đập thủy lợi, trường học và bệnh viện.
Trong hoạt động đầu tư, nhà đầu tư cần chú ý đến sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động Tư liệu lao động, bao gồm máy móc, thiết bị, nhà xưởng và phương tiện vận tải, là những công cụ vật chất giúp con người tác động vào đối tượng lao động như nguyên vật liệu và sản phẩm dở dang Không có hoạt động đầu tư nào thiếu TSCĐ, bao gồm toàn bộ cơ sở kỹ thuật đạt tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước và có khả năng điều chỉnh theo giá cả từng thời kỳ.
Xây dựng cơ bản là một phần quan trọng trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB), bao gồm các công việc như khảo sát, thiết kế, xây dựng và lắp đặt để tạo ra tài sản cố định (TSCĐ) Kết quả của XDCB là các TSCĐ có khả năng sản xuất và phục vụ nhất định, góp phần vào quá trình đổi mới và tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế quốc dân Đầu tư XDCB nhằm tạo ra các công trình xây dựng phục vụ mục đích của nhà đầu tư, đồng thời tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội, thể hiện rõ vai trò của nó như một hoạt động kinh tế thiết yếu.
Quá trình xây dựng cơ bản chuyển đổi vốn đầu tư từ tiền tệ thành tài sản phục vụ mục đích đầu tư.
2.1.1.3 Khái niệm về quản lý và quản lý vốn đầu tư XDCB a, Khái niệm về quản lý
Quản lý là chức năng và hoạt động của các hệ thống tổ chức trong nhiều lĩnh vực như sinh học, kỹ thuật và xã hội Chức năng này đảm bảo duy trì cấu trúc ổn định, tối ưu hóa hoạt động và thực hiện các chương trình, mục tiêu của hệ thống.
Quản lý là quá trình tác động của chủ thể lên đối tượng nhằm đạt mục tiêu đã đề ra Hoạt động này phổ biến ở mọi lĩnh vực, cấp độ và liên quan đến tất cả mọi người Quản lý mang tính chất xã hội, phát sinh từ sự cộng đồng, dựa trên phân công và hợp tác để hoàn thành mục tiêu chung.
Quản lý, theo nghĩa rộng, là hoạt động có mục đích của con người, trong đó một hoặc nhiều người điều phối hành động của người khác để đạt được mục tiêu một cách hiệu quả.
Quản lý là việc sử dụng kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm để điều phối nguồn lực nhằm thực hiện các quy trình giải quyết vấn đề (Nguyễn Bạch Nguyệt và Từ Quang, 2007) Đặc biệt, khái niệm quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) đóng vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa hiệu quả sử dụng nguồn lực và đảm bảo tiến độ thực hiện các dự án.
Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản cần tuân thủ quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành và xây dựng, đồng thời đảm bảo an ninh, an toàn xã hội và môi trường Việc này cũng phải phù hợp với các quy định pháp luật về đất đai và các luật liên quan khác.
Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản là chức năng và hoạt động quan trọng của hệ thống tổ chức, nhằm đảm bảo việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn để phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
2.1.2 Vai trò và nguyên tắc quản lý vốn đầu tư XDCB
2.1.2.1 Vai trò của vốn đầu tư XDCB
Vốn đầu tư XDCB đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế, là động lực chính thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng Thiếu vốn đầu tư, nền kinh tế sẽ không thể tiến xa và đạt được sự phát triển bền vững.
Vốn đầu tư XDCB đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Nhà nước tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và duy trì vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Kinh nghiệm về quản lý vốn đầu tư XDCB ở một số địa phương trong nước
2.2.1.1 Kinh nghiệm quản lý vốn đầu tư của Ban Quản lý dự án xây dựng dân dụng và kỹ thuật hạ tầng đô thị tỉnh Nghệ An năm 2014
Ban QLDA xây dựng dân dụng và kỹ thuật hạ tầng đô thị tỉnh Nghệ An, trực thuộc UBND tỉnh, được thành lập theo QĐ số 115/2005/QĐ-UBND, có nhiệm vụ làm chủ đầu tư cho các dự án sử dụng vốn NSTW hỗ trợ và vốn TPCP tại TP Vinh Đến cuối năm 2014, Ban đang quản lý 13 dự án lớn, trong đó 9 dự án đang triển khai và 4 dự án đang trong quá trình quyết toán đầu tư.
Những ưu điểm trong công tác quản nguồn vốn ĐTXD của Ban quản lý:
- Nguồn vốn quy hoạch thực hiện đầu tư
Trong năm qua, ban quản lý đã dồn toàn bộ nguồn lực đầu tư để hoàn thành các công trình quy hoạch quan trọng như khu kinh tế Đông Nam và thị xã Thái Hòa, đồng thời triển khai các quy hoạch mới như xây dựng vùng Tân Thắng và điều chỉnh quy hoạch thành phố Vinh giai đoạn 2020 Công tác đầu tư tập trung vào các dự án trọng điểm theo Nghị quyết Đại hội XVII của Đảng bộ tỉnh và các dự án trong kế hoạch 5 năm 2011-2015, bao gồm hạ tầng khu kinh tế Đông Nam và nâng cấp tỉnh lộ 535 đoạn Vinh-Cửa Lò.
Dưới sự chỉ đạo kịp thời của UBND tỉnh Nghệ An, các ngành liên quan đã phối hợp chặt chẽ với các nhà thầu để triển khai thực hiện dự án từ nguồn ngân sách Nhà nước Tính đến ngày 31/10, khối lượng thực hiện đạt 2.896 tỷ đồng, tương đương 83,57% kế hoạch, tăng 7,85% so với cùng kỳ năm trước, với tỷ lệ giải ngân đạt 73,5%.
*Những tồn tại và hạn chế
Công tác GPMB, công tác quy hoạch, QLNN về đầu tư, đấu thầu của Ban quản lý còn nhiều bất cập:
Chất lượng tư vấn, khảo sát và thiết kế lập dự án hiện nay còn yếu kém và thiếu trách nhiệm Tình trạng gia tăng quy mô và tổng mức đầu tư, ngoại trừ những thay đổi do chính sách, đang diễn ra khá phổ biến.
- Công tác kiểm tra, giám sát của Ban quản lý đối với các dự án quan trọng chưa được thực hiện thường xuyên, kịp thời
Một số dự án tổ chức đấu thầu vẫn chưa được bàn giao mặt bằng để triển khai do giá bồi thường GPMB không hợp lý và nguồn vốn hạn chế Điều này dẫn đến tiến độ công tác tái định cư chậm, trong khi công tác trích lục và trích đo chưa được chú trọng đúng mức.
Một số gói thầu vẫn gặp tình trạng chậm tiến độ, dẫn đến việc đề nghị gia hạn hợp đồng mà chưa có quy định thống nhất, gây lãng phí vốn đầu tư Tiến độ giải ngân nguồn vốn hiện vẫn ở mức thấp so với quy định, trong khi tình hình dư tạm ứng từ các năm trước vẫn còn nhiều.
Về quản lý chất lượng công trình và quyết toán vốn đầu tư:
Việc tuân thủ quy định quản lý chất lượng trong xây dựng hiện còn thấp, dẫn đến sự sơ suất trong việc chọn lựa nhà thầu thiếu năng lực Nhiều dự án sử dụng vật liệu không đúng thiết kế và không đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn chịu lực cũng như phòng chống cháy nổ.
Tính đến ngày 31/10/2014, Kho bạc Nhà nước tỉnh Nghệ An đã tổng hợp nhiều dự án do Ban quản lý thực hiện đã hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng, tuy nhiên vẫn chưa nhận được quyết định phê duyệt quyết toán từ các cấp có thẩm quyền, dẫn đến tình trạng quyết toán vốn đầu tư chậm trễ.
Dựa trên kinh nghiệm quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) của Hàn Quốc, Trung Quốc và Ban Quản lý Dự án xây dựng dân dụng và kỹ thuật hạ tầng đô thị tỉnh Nghệ An, có thể rút ra một số bài học quan trọng nhằm hoàn thiện cơ chế và nâng cao hiệu quả công tác quản lý vốn đầu tư XDCB tại địa phương.
Quản lý Nhà nước đối với đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) cần tập trung vào việc phát hiện những bất cập trong chế độ, chính sách và cơ chế liên quan đến vốn đầu tư Việc này đòi hỏi sửa đổi, điều chỉnh và bổ sung kịp thời để phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học-công nghệ và sự biến đổi của cơ chế thị trường Điều này sẽ tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc, nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư XDCB trong tương lai.
Các chủ đầu tư trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) cần cải thiện chất lượng quy hoạch, kế hoạch, thiết kế, thẩm định, đấu thầu, phê duyệt và quản lý cấp phát vốn, cũng như quyết toán vốn đầu tư cho các dự án XDCB.
Để cải thiện chất lượng quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, cần kiện toàn bộ máy thực thi công tác quản lý, đồng thời nâng cao năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, viên chức trong lĩnh vực này.
Kho bạc Nhà nước, chủ đầu tư và nhà thầu cần cải thiện chất lượng quản lý trong công tác thanh toán và quyết toán vốn đầu tư XDCB bằng cách đảm bảo tính chính xác và tuân thủ đúng chế độ, đồng thời giảm thiểu các thủ tục gây phiền hà Cần giảm nợ đọng và xử lý nghiêm các sai phạm dẫn đến thất thoát, lãng phí, tham ô và tham nhũng Quản lý cần tập trung vào việc nâng cao năng lực kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán và thanh tra các khâu liên quan.
Cần tăng cường vai trò của các cơ quan chức năng như Sở Kế hoạch, Sở Tài chính và KBNN trong quản lý Nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản Việc rà soát và phân loại các dự án đang thiếu vốn để triển khai, cũng như các dự án đã quyết định đầu tư nhưng chưa được bố trí vốn, cần được thực hiện sớm Đề xuất và quyết định các biện pháp giải quyết phù hợp cho từng dự án là cần thiết, bao gồm chuyển đổi hình thức đầu tư, huy động nguồn vốn hợp pháp khác hoặc tạm dừng thực hiện cho đến khi có đủ điều kiện bố trí vốn, đồng thời phải bảo đảm giá trị của các công trình dở dang.
Các chủ đầu tư cần nâng cao công tác giám sát và đánh giá đầu tư đối với các nhà thầu và doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng Việc này cần được thực hiện chặt chẽ ở mọi giai đoạn, từ lập, thẩm định và phê duyệt dự án, dự toán, thiết kế bản vẽ thi công, cho đến tổ chức đấu thầu và thi công, đảm bảo tuân thủ đúng quy định của Nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản.